Phát triển tư duy thống kê cho sinh viên trong dạy học Toán - Thống kê Y Dược ở các trường đại học ngành Dược

Phát triển tư duy thống kê cho sinh viên trong dạy học Toán - Thống kê Y Dược ở các trường đại học ngành Dược

Quách Thị Sen senqtdhd@gmail.com Trường Đại học Dược Hà Nội 13 - 15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam
Tóm tắt: 
Bài viết tổng hợp và đưa ra các quan niệm về tư duy thống kê, đồng thời chỉ ra các quá trình của tư duy thống kê. Qua đó, xác định được 5 mức độ tư duy thống kê gồm: Biết đọc hiểu dữ liệu; biết vẽ các biểu đồ và đồ thị đơn giản; biết tổ chức và thu gọn dữ liệu; biết phân tích dữ liệu; biết liên hệ thống kê với thực tiễn ngành Dược và chỉ ra 5 biểu hiện tư duy thống kê của sinh viên ở các trường đại học ngành Dược gồm: Có khả năng đọc biểu đồ, đồ thị; có khả năng tổ chức và thu gọn dữ liệu; có khả năng vẽ được một số biểu đồ, đồ thị dạng đơn giản; có khả năng phân tích dữ liệu thống kê và có khả năng liên hệ thống kê với thực tiễn ngành Dược.
Từ khóa: 
Statistical thinking
students
pharmaceutical industry
Mathematics - Statistics in medicine and pharmacy
levels
Tham khảo: 

[1] Trần Đức Chiển, (2007), Rèn luyện tư duy thống kê cho học sinh trong dạy học thống kê - xác suất ở môn Toán trung học phổ thông, Luận án Tiến sĩ Giáo dục học, Viện Chiến lược và Chương trình Giáo dục.

[2] Hoàng Nam Hải, (2013), Phát triển năng lực suy luận thống kê cho sinh viên cao đẳng chuyên nghiệp, Luận án Tiến sĩ Giáo dục học, Trường Đại học Vinh

[3] Randall E. Groth, (2003), Development of a high school statistical thinking framework, Luận án Tiến sĩ, Illinois State U., USA.

[4] Trần Ngọc Lan, Trương Thị Tố Mai, (2007), Rèn luyện tư duy cho học sinh trong dạy học Toán bậc Tiểu học, NXB Trẻ.

[5] Chu Cẩm Thơ, (2015), Phát triển tư duy thông qua dạy học môn Toán ở trường phổ thông, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội

[6] Nguyễn Phan Dũng, Quách Thị Sen, Phạm Thị Hồng Cẩm, (2018), Xác suất và Thống kê, NXB Y học.

[7] Snee R.,(1999), Discussion: Development and use of statistical thinking: A new era, International Statistical Review, 67(3), 255–258.

Bài viết cùng số