[1] Kelley, R.T and Knowles, J.G, (2016), A conceptual framework for intergrated STEM education. International Journal of STEM education, DOI: 10.1186/s40594-016- 0046-z 3(11), open access.
[2] Mạc Văn Trang, (2014), Tâm lí học Sư phạm kĩ thuật, Viện Sư phạm kĩ thuật. Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
[3] BangkoK Office - KWDI, (2015), A complec Formula: Girls and Women in Science, Technology, Engineering and Mathematics in Asia. Unesco 2015.
[4] Toshiyuki Matsumoto, (2017), Phát biểu khai mạc của UNESCO tại Hội thảo Quốc gia “Phát triển giáo dục STEM cho trẻ em gái ở Việt Nam”, Hà Nội, tháng 3 năm 2017.
[5] Michael Greene, (2016), Hội nghị Phụ nữ trong lĩnh vực Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học, Đà Nẵng, tháng 8 năm 2016.
[6] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Số liệu thống kê gíao dục
[7] Hoàng Bá Thịnh, Đại diện Ban Đổi mới chương trình và sách giáo khoa. http://www.baogiaothong. vn/bao-dong-bat-binh-dang-gioi-trong-giaoduc-d144345.html.
[8] Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2015), Báo cáo quốc gia Giáo dục cho mọi người 2015 của Việt Nam.
[9] Do Thi Bich Loan, (2014), The Gender Dimension in Learning Achievement and Transition to STEM. Vietnam country report, UNESCO, Bangkok.
[10] Quỹ Giáo dục Việt Nam, (2014), Báo cáo cập nhật giáo dục đại học. Số 7/2014. Những quan sát về giáo dục đại học trong các ngành khoa học Nông nghiệp, kĩ thuật xây dựng, khoa học máy tính, điện - Điện tử - Viễn thông, Khoa học môi trường, Vật lí và Giao thông vận tải tại một số trường đại học Việt Nam.
[11] Bybee R. W, (2013), The case for STEM education: Challenges and Opportunities. Arlington, VA: National Science Teachers Association.
[12] Đỗ Thị Bích Loan, (2017), Bình đẳng giới trong Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học ở Việt Nam, Kỉ yếu Hội thảo quốc gia “Phát triển giáo dục STEM cho trẻ em gái ở Việt Nam”, Hà Nội, ngày 27-31 tháng 3 năm 2017.