[1] Thủ tướng Chính phủ, (10/5/2017), Quyết định số 622/ QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
[2] Thủ tướng Chính phủ, (04/6/2019), Quyết định số 681/ QĐ-TTg ban hành Lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030.
[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo, (26/6/2017), Quyết định số 2161/QĐ-BGDĐT ban hành Kế hoạch thực hiện mục tiêu phát triển bền vững lĩnh vực giáo dục và đào tạo đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030.
[4] Trần Kiều, (2006), Nghiên cứu xây dựng phương thức và một số bộ công cụ đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông, đề tài cấp Bộ CTGD-2004-01, Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục
[5] N. Green, (2007), Exploring quality in early educational communities, Vision into practice, pp.95–100.
[6] L. Huntsman, (2008), Determinants of quality in child care: A review of the research evidence, Centre for Parenting and Research, NSW Department of Community Services.
[7] D. Ryder, G. Davitt, R. Higginson, and S. Smorti, (2016), Leaders growing leaders: effective early childhood leaders for sustainable leadership, NZEALS Conference April 2016, Retrieved 18 July 2017 from http://nzeals.org.nz/conference2016/pdf/SESSION-5- RYDER.pdf.
[8] L. K.M., A. C. Payton, L. J.K., V. Kintner-Duffy, and D. Cassidy, (2012), Examining the definition and measurement of quality in early childhood education: A review of studies using the ECERS-R from 2003 to 2010, Early Childhood Research and Practice, vol. 14, Mar
[9] B. Hamre and R. Pianta, (2007), Learning opportunities in preschool and early elementary classrooms, School readiness and the transition to kindergarten in the era of accountability, Jan
[10] A. Dikshit, D. Sukumar, S. Kaur, and Z. A. Goh, (2021), Preschools for the People: An Examination of Singapore’s Early Childhood Education Landscape (Part I).
[11] J. Vlasov et al., (2019), Guidelines and recommendations for evaluating the quality of early childhood education and care, in Julkaisut / Kansallinen koulutuksen arviointikeskus. Helsinki: Finnish Education Evaluation Centre.
[12] A. Lynch and J. Sachs, (2021), The United States. Sustainable Development Report 2021, New York: SDSN
[13] C. Johnstone, M. Schuelka, and G. Swadek, (2020), Quality Education for All? The Promises and Limitations of the SDG Framework for Inchất lượngusive Education and Students with Disabilities, pp. 96–115, doi: 10.1163/9789004430365_004.
[14] T. Estee and Y. Grace, (2021), Singapore’s Monitoring of Sustainable Development Goals Implementation, Policy Planning Division Singapore Department of Statistics, Statistics Singapore Newsletter Issue 2, 2021.
[15] W. Leal Filho, V. O. Lovren, M. Will, A. L. Salvia, and F. Frankenberger, (2021), Poverty: A central barrier to the implementation of the UN Sustainable Development Goals, Environ Sci Policy, vol. 125, pp. 96–104.
[16] D. Rad et al., (2022), Pathways to inclusive and equytable quality early childhood education for achieving SDG4 goal—A scoping review, Front Psychol, vol. 13, p. 955833.
[17] A. L. Salvia, W. Leal Filho, L. L. Brandli, and J. S. Griebeler, (2019), Assessing research trends related to Sustainable Development Goals: Local and global issues, J Clean Prod, vol. 208, pp. 841–849.
[18] C. T. Tan, (2017), Enhancing the quality of kindergarten education in Singapore: Policies and strategies in the 21st century, International Journal of Child Care and Education Policy, vol. 11, no. 1, pp.1–22
[19] A. Lazzari, (2017), The current state of national ECEC quality frameworks, or equyvalent strategic policy documents, governing ECEC quality in EU Member States, NESET II ad hoc question No. 4/2017.
[20] OECD, (2016), Starting Strong IV: Monitoring Quality in Early Childhood Education and Care, in Starting Strong, OECD, doi: 10.1787/9789264233515-en.