Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 1,039
Từ những năm cuối của thế kỉ XX, dạy học trực tuyến đã được quan tâm, nghiên cứu, thử nghiệm và triển khai trên phạm vi toàn cầu. Ở Việt Nam, cùng với các chính sách ứng dụng công nghệ trong dạy học, sự phát triển của các nền tảng lưu truyền dữ liệu, mạng xã hội, các chương trình dạy học trực tuyến ra đời ngày càng nhiều. Giáo dục trực tuyến với ưu điểm: Tài liệu được lưu trữ trên internet giúp cho người học dễ học, dễ tiếp cận; sự hỗ trợ của công nghệ dễ dàng cho phân hóa và chương trình hóa, tạo điều kiện để người học tự học, học chủ động; …Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta đang sống trong kỉ nguyên số, toàn cầu hóa, đặc biệt là diễn biến phức tạp của dịch bệnh đòi hỏi dạy học trực tuyến trở thành một phương thức dạy và học dành cho mọi người. Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam cũng đã chính thức công nhận hình thức dạy học trực tuyến trong nhà trường. Tuy nhiên, chất lượng nội dung dạy học trực tuyến vẫn còn là một vấn đề bị bỏ ngỏ, thực tế nhiều chương trình dạy học trực tuyến đã không được kiểm soát chất lượng cũng như chưa có một yêu cầu đảm bảo chất lượng một cách chính thức nào được ban hành. Tác giả tiến hành một nghiên cứu thực tiễn về nội dung của một số chương trình dạy học trực tuyến, đối sánh với những yêu cầu sư phạm để tìm hiểu: Cần đặt ra những yêu cầu gì cho nội dung dạy học trực tuyến giáo dục phổ thông trong bối cảnh hiện nay? Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu một số vấn đề lí luận, thực tiễn về yêu cầu đối với nội dung dạy học trực tuyến trong bối cảnh đổi mới giáo dục và thích ứng với những biến đổi xã hội khác nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục.
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 1,386
Bài viết trình bày một số vấn đề cơ bản liên quan đến học liệu Elearning, cách khai thác và sử dụng học liệu trong tự học, tự bồi dưỡng phát triển chuyên môn của giáo viên tiểu học và một số kết quả nghiên cứu đánh giá về tác động của học liệu E-learning đến tự học, tự bồi dưỡng phát triển chuyên môn của giáo viên tiểu học trên cơ sở xin ý kiến đánh giá của của 250 giáo viên tiểu học thuộc các tỉnh và thành phố: Hà Nội, Nam Định, Thái Bình, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh sau khi sử dụng một số mô đun của hệ thống học liệu do chúng tôi thiết kế xây dựng (từ năm 2015 đến nay).Trên cơ sở đó, bài viết cũng đưa ra một số khuyến nghị thúc đẩy ứng dụng E-learning vào trong đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, góp phần nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên thực hiện đổi mới căn bản toàn diện giáo dục.
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 1,835
Mặc dù phát triển gần như cùng một lúc với Internet nhưng mãi tới gần đây vai trò của giáo dục trực tuyến mới được quan tâm và thừa nhận một cách rộng rãi. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại có đến hàng tỉ cá nhân tham gia học tập trực tuyến ở tất cả các cấp học và loại hình đào tạo. Do tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến một cách phức tạp dẫn đến giãn cách xã hội, giáo dục trực tuyến đã thay thế giáo dục truyền thống, giúp cho đại bộ phận học sinh, sinh viên không cần phải đến trường vẫn có thể theo học, tiếp thu được kiến thức thông qua mạng Internet. Tất nhiên, giáo dục trực tuyến mới chỉ đang trong giai đoạn bắt đầu phát triển. Nó chỉ mang vai trò bổ trợ chứ không thể thay thế cho giáo dục truyền thống. Để có một cách nhìn toàn diện về vai trò của giáo dục đại học trực tuyến trong giai đoạn phát triển mới, bài báo đề cập đến tình hình phát triển giáo dục đại học trực tuyển trong thời gian gần đây, đặc biệt trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19. Bên cạnh đó, cũng cần phải xác định lại mô hình giáo dục trực tuyến một cách phù hợp với điều kiện của các cơ sở giáo dục tại Việt Nam. Một mô hình về đào tạo trực tuyến của Trường Đại học Mở Hà Nội được đưa ra dưới dạng khung làm việc để các cơ sở giáo dục tham khảo. Cuối cùng, một số tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng dành cho giáo dục Đại học trực tuyến cũng được đề xuất căn cứ trên việc khảo sát mô hình của Trường Đại học Mở Hà Nội.
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 1,047
Quản lí lớp học khi giảng dạy các học phần ở bậc Đại học là trách nhiệm của giảng viên đứng lớp. Quản lí lớp học có vai trò quan trọng nhất trong các vai trò của của giảng viên. Bài báo trình bày các vấn đề: Quản lí lớp trong giảng dạy các học phần ở bậc Đại học và một số kinh nghiệm quản lí lớp trong giảng dạy học phần. Quản lí lớp tập trung vào các vấn đề học phần và quản lí lớp học phần. Kinh nghiệm quản lí lớp trong giảng dạy học phần được chia thành hai nhóm: Xây dựng và tổ chức lớp học phần tự quản và Tăng cường các biện pháp khuyến khích, điều chỉnh thái độ học tập của sinh viên.
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 658
Bài viết trình bày khái niệm về hành vi tìm kiếm thông tin và sự lo âu khi sử dụng thư viện. Bên cạnh đó, bài viết phân tích hiện trạng lo âu khi sử dụng thư viện của sinh viên đại học từ kết quả chọn mẫu khảo sát bằng bảng hỏi dành cho sinh viên. Bảng hỏi được xây dựng dựa trên thang đo lường sự lo âu khi sử dụng thư viện. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số biện pháp nhằm giảm thiểu sự lo âu khi sử dụng thư viện của sinh viên trong quá trình tìm kiếm thông tin phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và giải trí
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 3,259
Sinh viên Việt Nam là nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước. Việc chăm lo giáo dục đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cùng với giáo dục thể chất, văn hoá, giáo dục chuyên môn, nghiệp vụ, giáo dục đạo đức góp phần hoàn thiện các mặt, đức, trí, thể, mĩ cho sinh viên Việt Nam nói riêng, thanh niên Việt Nam nói chung - thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng nước nhà.
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 922
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, xây dựng và sử dụng khung năng lực cố vấn học tập có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ này ở các trường đại học nói chung, trường đại học sư phạm kĩ thuật nói riêng. Bài viết đề xuất khung năng lực cố vấn học tập trường đại học sư phạm kĩ thuật gồm 05 thành tố, đó là: 1/ Phẩm chất chính trị, đạo đức và phát triển nghề nghiệp; 2/ Năng lực chuyên môn và năng lực dạy học; 3/ Năng lực nghiệp vụ; 4/ Năng lực nghiên cứu khoa học và tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học cho người học; 5/ Năng lực phát triển quan hệ xã hội. Khung năng lực này được sử dụng để cải thiện chất lượng của đội ngũ cố vấn học tập và chất lượng đào tạo tại các trường đại học sư phạm kĩ thuật
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 1,164
Bài viết đánh giá sự chấp nhận và thực hiện chuyển đổi số trong các cơ sở giáo dục đại học khối ngành Kinh tế ở khu vực miền Bắc. Khảo sát được tiến hành với sự tham gia của 539 sinh viên thuộc các khối ngành Kinh tế và Kinh doanh đến từ 5 trường đại học, gồm: Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Ngoại thương, Đại học Thương mại, Học viện Ngân hàng và Học viện Tài chính. Nghiên cứu sử dụng các nhân tố từ Mô hình lí thuyết hợp nhất về chấp nhận và thực hiện công nghệ (Unified Theory of Acceptance and Use of Technology - UTAUT) trong một nỗ lực nhằm dựng nên bức tranh tổng quát các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi chấp nhận và thực hiện chuyển đối số trong học tập của sinh viên. Từ phân tích có thể kết luận rằng, phần lớn sinh viên được hỏi có xu hướng chấp nhận và thực hiện chuyển đối số cho mục đích học tập và nghiên cứu tại các cơ sở giáo dục đại học.
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 1,450
Tự học có vai trò quan trọng trong quá trình học ở đại học của sinh viên Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Tự học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên trong việc tiếp nhận tri thức và rèn luyện bản thân. Vì vậy, tìm hiểu thực trạng tự học để đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao việc tự học của sinh viên Học viện Nông nghiệp Việt Nam hiện nay là một việc làm cần thiết.
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 846
Mục tiêu của giáo dục đại học là đào tạo nhân lực trình độ cao, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, nghiên cứu khoa học và công nghệ tạo ra tri thức, sản phẩm mới, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế. Do đó, giáo dục ở bậc Đại học có vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống giáo dục cũng như nền kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Trong những năm qua, các cơ sở giáo dục đại học ở nước ta đã và đang nỗ lực nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực với xu hướng kiểm định chất lượng và tự chủ. Để thực hiện được điều đó, vai trò của nguồn lực tài chính trong các cơ sở giáo dục đại học là rất quan trọng. Học phí là nguồn thu chủ yếu tạo ra nguồn lực tài chính của mỗi cơ sở giáo dục đại học ngoài ngân sách nhà nước. Xu hướng tự chủ giáo dục đại học càng đòi hỏi phải có một cơ chế thu, chi học phí phù hợp, đảm bảo cho sự phát triển chất lượng của mỗi nhà trường. Tuy nhiên, cơ chế xác định học phí ở các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam trong Nghị định số 86/2015/NĐ-CP đã bộc lộ một số bất cập, cần nghiên cứu để điều chỉnh. Bài viết trình bày xu hướng học phí để cải thiện chất lượng giáo dục đại học cũng như cơ chế xác định giá dịch vụ giáo dục đào tạo đại học ở một số quốc gia trên thế giới, sơ lược thực trạng về cơ chế xác định học phí ở các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam, từ đó đưa ra một số khuyến nghị cho việc xây dựng cơ chế xác định học phí giáo dục đại học ở Việt Nam.