Danh sách bài viết

Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,091
Phát triển kĩ năng hơp tác cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác chăm sóc, giáo dục ở các trường mầm non. Bài viết phản ảnh một phần bức tranh thực trạng tổ chức hoạt động tạo hình theo phương thức làm việc nhóm nhằm phát triển kĩ năng hợp tác cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua nghiên cứu khảo sát bằng phiếu hỏi đối với 60 giáo viên mầm non đang công tác tại 08 trường mầm non thuộc phạm vi nội thành và ngoại thành của thành phố Huế, đồng thời phỏng vấn sâu nhằm tìm hiểu các thông tin định tính đối với bốn giáo viên mầm non và quan sát cách tổ chức hoạt động tạo hình của giáo viên mầm non. Kết quả khảo sát mở ra một số vấn đề cần nghiên cứu tiếp theo, liên quan đến thực trạng mức độ kĩ năng hợp tác của trẻ mầm non ở các độ tuổi, hoặc các điều kiện về môi trường, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động có ảnh hưởng như thế nào đến mức độ kĩ năng hợp tác của trẻ mầm non.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,349
Tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học hiện nay được xem là chìa khóa thực hiện việc học đi đôi với hành, học thông qua làm, qua vận dụng những kinh nghiệm vào giải quyết những vấn đề thực tiễn nhằm phát triển năng lực cho người học. Vì vậy, rèn luyện kĩ năng tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học các môn học cho sinh viên sư phạm là cần thiết trong xu hướng đổi mới dạy học phát triển năng lực theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018. Bài viết phân tích khái quát về vấn đề rèn luyện kĩ năng tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học cho sinh viên, từ đó đề xuất tổ chức các hoạt động rèn luyện vận dụng chu trình học tập trải nghiệm của David Kolb nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện kĩ năng tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học các môn học cho sinh viên ngành Giáo dục tiểu học ở các trường đại học sư phạm.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,669
Dạy học tích hợp là cách thức dạy học đã có từ lâu. Thuật ngữ “tích hợp” xuất hiện lần đầu trong các công trình về tâm lí học ở thế kỉ thứ XIX. Tuy nhiên, đến thế kỉ thứ XX thì việc vận dụng “tích hợp” vào trong giáo dục mới được đẩy mạnh. Những năm cuối của thập niên 1970 và những năm đầu thập niên 1980, việc dạy học “tích hợp” các môn khoa học công nghệ không còn là vấn đề riêng của một quốc gia nào nữa mà đã được UNESCO khuyến cáo là cách thức dạy học quan trọng đối với các môn Khoa học Công nghệ của tất cả các nước. Ở Việt Nam, sau khi Chương trình Giáo dục phổ thông môn Toán ra đời năm 2018 thì cách thức dạy học theo hướng tích hợp được chú trọng hết mức. Trong dạy học giáo dục tài chính, cách thức dạy học tích hợp được nhấn mạnh một cách đặc biệt. Ở lớp 10, nội dung thiết lập kế hoạch đầu tư cá nhân là nội dung Toán quan trọng trong hoạt động thực hành và trải nghiệm. Đây là nội dung giúp việc dạy học tích hợp Toán học và giáo dục tài chính một cách hữu hiệu. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta chưa có công trình nghiên cứu nào bàn về chủ đề này. Chính vì thế, đây là khoảng trống mà bài báo sẽ tập trung nghiên cứu. Trong bài báo này, nhóm tác giả đề cập đến quan điểm về tích hợp, dạy học tích hợp, phân loại dạy học tích hợp, tích hợp Toán học với giáo dục tài chính, quy trình cũng như cách thức tổ chức dạy học tích hợp Toán và giáo dục tài chính thông qua thiết lập kế hoạch đầu tư cá nhân.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,808
Đánh giá sách chính là sự cải cách, cân chỉnh theo chu kì nhằm cải thiện chất lượng giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình giáo dục, định hướng giáo dục để đáp ứng chính sách và hoạch định giáo dục quốc gia. Bài viết dựa trên phương pháp tổng quan tài liệu để tìm ra các phạm trù và khái niệm đánh giá sách giáo khoa nhằm làm rõ giá trị cốt lõi, cách đánh giá độ tin cậy và chất lượng tài liệu được thiết kế để cân nhắc cẩn thận trước khi đưa vào sử dụng đại trà phục vụ cho các niên khóa Chương trình Giáo dục phổ thông. Bên cạnh đó, bài viết cũng bàn đến việc cân nhắc, loại bỏ các yếu tố chưa phù hợp về văn hóa vùng miền, phương ngữ và các yếu tố không mong muốn hiện diện trong cuốn sách hay bộ sách được đánh giá. Việc đánh giá sách giáo khoa sao cho có hiệu quả cần dựa trên các yếu tố khoa học và người dùng, đáp ứng nhu cầu dạy và học đồng thời cần dựa trên các tiêu chí của thế giới và phù hợp với tiêu chuẩn quốc gia, xét phương diện về nội dung, tính kinh tế, tính tiện lợi, tính tự chủ và khả năng ứng dụng công nghệ nhằm thích ứng tốt với mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng chủ thể.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,042
Quyền Trẻ em được quy định trong Công ước Liên Hợp quốc về Quyền Trẻ em. Đó là tất cả những gì pháp luật đã thừa nhận để trẻ em được sống, lớn lên một cách lành mạnh và an toàn. Các nghiên cứu về Quyền Trẻ em đều có chung cách nhìn nhận rằng, Quyền Trẻ em nhằm đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người tiếp nhận thụ động việc thực hiện quyền từ người lớn mà các em là những thành viên tham gia tích cực vào quá trình phát triển của chính mình trong việc thực hiện quyền đối với các trẻ em khác. Để đạt được điều đó, Quyền Trẻ em và giáo dục Quyền Trẻ em là vấn đề được thực thi trước hết trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ngay trong mỗi gia đình, cộng đồng xã hội và khi đến lớp. Nó phải được tiếp tục thể hiện trong Chương trình giáo dục ở cả cấp độ quốc gia và nhà trường. Dựa trên việc nghiên cứu tài liệu về bộ công cụ giáo dục Quyền Trẻ em, bài viết trình bày kết quả rà soát việc thể hiện giáo dục Quyền Trẻ em trong Chương trình Giáo dục mầm non hiện hành của Việt Nam. Kết quả cho thấy một số khía cạnh của Quyền Trẻ em đã được thể hiện trong Chương trình. Thông tin từ bài viết có thể hỗ trợ cho việc thể hiện vấn đề giáo dục Quyền Trẻ em một cách rõ nét và toàn diện hơn nữa trong Chương trình Giáo dục mầm non mới.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,198
Trong những năm gần đây, Việt Nam đang đã đạt được những tiến bộ quan trọng trong việc thực hiện cam kết Chương trình Nghị sự 2030 về phát triển bền vững ở lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Bài viết phân tích, tổng hợp lí thuyết về đánh giá chất lượng giáo dục mầm non theo mục tiêu phát triển bền vững số 4 (SDG4) và kinh nghiệm thực tiễn về đánh giá chất lượng giáo dục mầm non tại các quốc gia Úc, Singapore, Phần Lan và Hoa Kì để tìm kiếm những bài học kinh nghiệm từ việc ban hành chính sách đến xác định nội dung, tiêu chí chỉ số, quy trình, phương thức đánh giá, phân tích và sử dụng kết quả đánh giá chất lượng giáo dục mầm non, những thách thức, rào cản và các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình đánh giá chất lượng giáo dục mầm non theo SDG4. Dựa trên các kết quả phân tích, bài viết đưa ra khuyến nghị đối với Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị quản lí giáo dục mầm non và cơ sở giáo dục mầm non về việc thực hiện, giám sát, đánh giá chất lượng giáo dục mầm non theo SDG4 tại Việt Nam và các địa phương.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,429
Bài viết trình bày kết quả khảo sát công tác quản lí giáo dục phòng chống tai nạn thương tích ở các trường tiểu học tại tỉnh Bình Dương. Nghiên cứu này chủ yếu sử dụng phương pháp định lượng. Dữ liệu được thu thập từ mẫu khảo sát với 306 cán bộ quản lí, giáo viên tại các trường tiểu học ở tỉnh Bình Dương năm 2022. Kết quả cho thấy, các nhân tố: Lập kế hoạch giáo dục phòng chống; tổ chức giáo dục phòng chống; chỉ đạo giáo dục phòng chống; kiểm tra giáo dục phòng chống; kết quả ứng phó tai nạn thương tích có mối tương quan dương với nhau trong quản lí phòng chống tai nạn thương tích tại các trường tiểu học. Trong các yếu tố trên, hai yếu tố chỉ đạo giáo dục phòng chống và tổ chức giáo dục phòng chống có ảnh hưởng tích cực đến kết quả ứng phó tai nạn thương tích ở các trường tiểu học này.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 4,697
Hiện nay, các trường tiểu học đang thực hiện dạy học theo Chương trình Giáo dục phổ thông (ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) ở các lớp 1, 2, 3, 4. Yêu cầu đánh giá kết quả giáo dục theo Chương trình 2018 đang được đặt ra, nhằm xác định mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực và sự tiến bộ của học sinh trong quá trình học tập, đồng thời cung cấp những thông tin chính xác, kịp thời để có những điều chỉnh hợp lí các hoạt động dạy học, quản lí và phát triển chương trình, đáp ứng mục tiêu giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục trong những năm tiếp theo. Chương trình Giáo dục phổ thông môn Ngữ văn đã định hướng căn cứ để đánh giá mức độ phát triển hai năng lực đặc thù của môn học (năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học) của học sinh là các yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe đối với học sinh mỗi lớp học, cấp học được quy định trong chương trình. Ở cấp Tiểu học, để đánh giá năng lực học sinh qua các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe trong môn Tiếng Việt, cần xây dựng Chuẩn đánh giá cho từng kĩ năng ở mỗi lớp học. Bài viết này đã phân tích yêu cầu cần đạt về kĩ năng viết nêu trong chương trình, từ đó đưa ra định hướng xây dựng Chuẩn đánh giá kĩ năng viết theo các mức kết quả đạt được của học sinh.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 2,231
Mục tiêu của Chương trình Giáo dục phổ thông môn Toán 2018 đã nhấn mạnh việc hướng học sinh đến khả năng vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Do đó, để góp phần thực hiện mục tiêu đó, giáo viên cần chú trọng đến năng lực mô hình hóa Toán học cho học sinh. Bài viết trình bày những khái niệm cơ bản về mô hình hóa Toán học và năng lực mô hình hóa Toán học. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đề xuất một số biện pháp sư phạm để bồi dưỡng năng lực mô hình hóa Toán học cho học sinh trong dạy học chủ đề Phương trình lượng giác ở lớp 11, giúp giáo viên dễ dàng hơn trong việc xây dựng các hoạt động để bồi dưỡng cho học sinh năng lực mô hình hóa Toán học.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,129
Bài viết trình bày cách thức vận dụng mô hình học tập trải nghiệm của David A. Kolb vào thiết kế các hoạt động học tập trải nghiệm trong dạy học học phần Đánh giá trong giáo dục mầm non cho sinh viên ngành Giáo dục mầm non trình độ Đại học. Đánh giá trong giáo dục mầm non là một học phần nghề nghiệp bắt buộc trong chương trình đào tạo giáo viên mầm non. Sinh viên sau khi học xong học phần không chỉ phát triển các năng lực chung mà còn phát triển năng lực chuyên môn và năng lực nghề nghiệp. Trên cơ sở chuẩn đầu ra học phần, mục tiêu, nội dung môn học, giảng viên lựa chọn nội dung phù hợp trong môn học để thiết kế hoạt động học tập trải nghiệm theo chu trình bốn bước của Kolb. Ngoài ra, bài viết cũng đưa ra một ví dụ cho việc vận dụng mô hình học tập trải nghiệm vào thiết kế các hoạt động cho một nội dung cụ thể trong học phần.