Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 1,181
Giáo dục đại học theo mô hình phương Tây ở Việt Nam đã được hình thành từ đầu Thế kỉ XX. Tuy nhiên, có thể xem nền giáo dục đại học hiện đại của nước ta bắt đầu từ khi thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1945 và phát triển qua nhiều giai đoạn theo các biến động lịch sử quốc gia: Từ năm 1945 đến khi chấm dứt cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954); Từ khi đất nước bị chia làm 2 miền đến khi thống nhất (1954 - 1975); Từ khi thống nhất đất nước năm 1975 đến nay. Ở đầu Thế kỉ XXI, các mô hình giáo dục đại học phương Tây có ảnh hưởng đến nước ta đều hội tụ đến giáo dục đại học Hoa Kì, cho nên mô hình giáo dục đại học mà Việt Nam hướng đến trong thời đại hội nhập quốc tế hiện nay cũng chính là mô hình giáo dục đại học Hoa Kì. Các đổi mới giáo dục đại học ở nước ta trong gần 3 thập niên qua đã thực hiện theo hướng đó nhưng còn gặp một số gay cấn. Muốn xây dựng một nền giáo dục đại học hiện đại, tiên tiến, cần đổi mới thể chế và hệ thống quản trị và quản lí giáo dục đại học nhằm đạt được mục tiêu mong muốn.
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 768
Chi bộ có vị trí, vai trò rất quan trọng, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân. Do vậy, hoạt động của chi bộ mà chủ yếu thông qua sinh hoạt chi bộ chính là nhằm thống nhất tư tưởng, tổ chức và hành động trong toàn Đảng để thực hiện mục tiêu của Đảng, gây dựng và giữ vững niềm tin trong đảng viên. Trong đó, chi bộ trong các trường đại học, cao đẳng giữ vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Để nâng cao năng lực lãnh đạo của các chi bộ trong trường đại học, cao đẳng trong tình hình mới hiện nay thì yêu cầu cấp thiết và đầu tiên là nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Chi bộ trong các trường đại học, cao đẳng có những đặc điểm riêng biệt. Bởi vậy, vấn đề đặt ra đối với chi bộ trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay là ngoài việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ thường kì thì cần đặc biệt quan tâm đến sinh hoạt chi bộ theo các chuyên đề phù hợp với đặc điểm riêng của mình để chi bộ kịp thời bám sát, lãnh đạo, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Qua đó, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo trong tình hình mới hiện nay
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 838
Rối loạn phổ tự kỉ là một dạng khuyết tật phát triển được đặc trưng bởi những khiếm khuyết về tương tác xã hội, giao tiếp và những hành vi định hình lặp lại. Trong các khó khăn đó thì khó khăn về ngôn ngữ có ảnh hưởng đến giao tiếp, học tập, hành vi và hoà nhập xã hội của trẻ. Có nhiều phương pháp, biện pháp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong đó tổ chức trò chơi tại các lớp mẫu giáo giúp trẻ hình thành và phát triển ngôn ngữ một cách tự nhiên và hiệu quả. Tuy nhiên, khi tổ chức trò chơi nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ rối loạn phổ tự kỉ, giáo viên cần điều chỉnh cách tổ chức hướng dẫn như là thay đổi nội dung, cách thức, hình thức, phương tiện sử dụng.
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 852
Trước hết, xã hội học tập bao gồm hệ thống giáo dục suốt đời cung cấp cơ hội cho người dân có thể học tập mọi nơi, mọi thời điểm trong suốt cuộc đời để mở rộng, củng cố và cập nhật, phát triển năng lực (kiến thức, kĩ năng, thái độ) theo nhu/yêu cầu. Tuy nhiên, có thể tận dụng hữu ích các cơ hội học tập này còn đòi hỏi có chính sách/quy định tạo động lực học tập suốt đời cho người dân. Hơn nữa, để học tập suốt đời, người dân/học cần có năng lực tự học được hình thành và phát triển trong quá trình học tập tại cơ sở giáo dục cũng như quá trình tự trải nghiệm của bản thân trong thực tiễn. Tiếp theo, để có thể học tập mọi nơi, mọi lúc còn đòi hỏi cần phát triển môi trường giáo dục/ học tập suốt đời tích cực và cộng đồng học tập. Cuối cùng, quy trình rà soát, điều chỉnh, bổ sung các chính sách/quy định phát triển xã hội học tập đã được đề xuất.
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 1,119
Động lực học tập có ảnh hưởng tích cực đến sự tham gia vào không gian học tập của sinh viên và các nhà giáo dục làm thế nào đó để có thể áp dụng được vấn đề này vào việc thiết kế chương trình nhằm cải thiện chất lượng và phân phối hợp lí các khóa học. Động lực bên trong, bên ngoài và các giá trị có liên quan sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu mà sinh viên mong muốn đạt được sau khóa học. Bài viết đề cập đến tính tự điều chỉnh động lực trong học tập của sinh viên. Sinh viên có thể tích cực tìm kiếm nguồn tài liệu tham khảo theo chương trình khóa học nhằm cải thiện kết quả học tập. Sẽ là hợp lí khi sinh viên được tạo điều kiện sử dụng thiết bị công nghệ, hoặc sinh viên được khuyến khích sử dụng sáng kiến của riêng họ để tự điều chỉnh động lực trong học tập và tìm kiếm thông tin hỗ trợ quá trình học tập của họ.
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 1,552
Bài viết trình bày về thực trạng giáo dục tỉnh Vĩnh Phúc, bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên với các bình diện tiếp cận, chất lượng và điều kiện đảm bảo giáo dục. Theo đó, trong thời gian qua, giáo dục Vĩnh Phúc đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, ngành Giáo dục vẫn đang phải đối mặt với một số khó khăn như: thiếu đội ngũ, cơ sở vật chất; một tỉ lệ không nhỏ GV chưa đạt chuẩn theo quy định của Luật Giáo dục 2019. Ngành Giáo dục đã xác định 8 nhóm nhiệm vụ giải pháp nhằm khắc phục những bất cập hiện tại, đồng thời đưa giáo dục Vĩnh Phúc phát triển hơn nữa trong giai đoạn tới.
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 1,037
Dạy học vi mô tỏ ra hiệu quả trong việc phát triển kĩ năng tổ chức dạy học STEM cho sinh viên sư phạm Hóa học khi thời lượng của các học phần đào tạo sư phạm có hạn mà chủ đề STEM thường dạy trong nhiều tiết. Với phương pháp dạy học này, sinh viên sẽ thực hành dạy học từng hoạt động nhỏ trong một nhóm có ít học viên. Do đó, sinh viên sẽ tự giác, tích cực, chủ động hoàn thành nhiệm vụ; có nhiều thời gian hơn để tương tác, chia sẻ và thực hành; hứng thú hơn, qua đó việc hình thành và phát triển kĩ năng cho từng cá nhân được thuận tiện, hiệu quả cao hơn. Bài báo trình bày cơ sở lí luận về các kĩ năng tổ chức dạy học STEM và dạy học vi mô; nguyên tắc, quy trình xây dựng và phiếu đánh giá theo tiêu chí về kĩ năng tổ chức dạy học STEM; chuẩn hóa hệ thống tiêu chí về kĩ năng tổ chức dạy học STEM thông qua độ tin cậy trong từng kĩ năng thành phần và độ giá trị bằng phần mềm SPSS.
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 1,588
Phát triển năng lực học sinh là một trong những nội dung đổi mới cơ bản trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018. Để đo lường được sự phát triển năng lực người học, cần phải thực hiện đánh giá năng lực. Thực tế hiện nay, Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể và Chương trình môn Khoa học lớp 4, 5 ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT mới chỉ dừng lại ở việc xác định phẩm chất, năng lực chung và năng lực đặc thù môn Khoa học. Tài liệu bồi dưỡng kiểm tra, đánh giá học sinh Tiểu học theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực môn Khoa học (mô-đun 3.9) (2020) tuy có đề cập đến các mức độ thể hiện năng lực nhưng vẫn còn chung chung. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng các mức độ đánh giá năng lực, cụ thể là năng lực đặc thù môn Khoa học ở Tiểu học, giúp cho việc đánh giá năng lực học sinh được dễ dàng, chính xác, khách quan.
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 1,044
Đối với người học tiếng Nhật, một trong những khó khăn là học chữ Hán. Để ghi nhớ chữ Hán, người học cần ghi nhớ cách viết, cách đọc và nghĩa. Trong cách đọc chữ Hán có âm thuần Nhật (Kun- yomi / 訓読み) và âm Hán- Nhật (On-yomi /音読み). Ngoài ra, một chữ Hán có thể có nhiều cách đọc âm Kun - yomi và On - yomi. Chữ Hán được truyền bá vào Nhật Bản và Việt Nam trong thời kì nhà Đường, vì vậy có những sự tương đồng giữa cách đọc âm Hán- Việt và âm Hán - Nhật (On- yomi). Kết quả khảo sát đưa ra những sự tương đồng giữa âm Hán- Việt và âm Hán - Nhật (On- yomi) đối với một số âm đầu, âm cuối và vần của âm Hán- Việt. Những sự tương đồng sẽ giúp cho việc học chữ Hán trong tiếng Nhật dễ dàng và thú vị hơn. Cụ thể là, từ âm Hán - Việt, người học có thể suy ra cách đọc âm On - yomi
Số: /2021
Số CIT: 0
Số lượt xem: 1,615
Năng lực cảm xúc - xã hội ở chiều kích sức khỏe tâm thần là một hướng tiếp cận mới của năng lực cảm xúc - xã hội tại Việt Nam. Bài viết trình bày thực trạng niềm tin vào bản thân, một trong bốn thành tố của mô hình năng lực cảm xúc - xã hội ở chiều kích sức khỏe tâm thần, của 474 học sinh trung học phổ thông ở một số tỉnh, thành của Việt Nam. Kết quả khảo sát và phỏng vấn cho thấy, học sinh có niềm tin vào bản thân ở mức trung bình. Các em chưa có sự kiên trì đối với chính mình. Từ đây, việc đề xuất các biện pháp củng cố, hỗ trợ học sinh rèn luyện sự kiên trì, kiên định với chính mình là rất cần thiết để củng cố niềm tin vào bản thân cho các em.