Danh sách bài viết

Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 491
Besides the formal education mode, constant education mode plays an important role and function in meeting with needs of human resources to help decrease the gap of level of production and social life in Viet Nam compared with developing countries in the region and in the world, integrate Vietnamese education into regional and global education, which is developing continuously. To make sure of the above missions, aside from diversifying modes of training, constant education mode requires evaluating and understanding the roles, functions together with opportunities and challenges of this mode correctly to support and influence it positively. In the process of human resource training in the Mekong Delta during this time, it is undeniable to mention the role of Can Tho University, which makes a great effort to maintain and develop the effectiveness of constant education mode
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 498
In this article, the author describes the outline of experiential teaching and learning activities such as project-based learning, learning games and so on. Besides, this article also focuses on organizing mini project-based learning activities and learning games in the experiential teaching of System Thinking subject at Ho Chi Minh City University of Technology and Education. Combination of both qualitative (observation, interview, practical product-based research) and quantitave (rubrics) research methods were applied to identify gradually changes of the core competences (collaboration and problem-solving) of technical students through participating in the experiential learning activities. Some minor suggestions are made on organizing the experiential learning activities in cohesion with learning outcomes, teaching and learning activities as well as using assessment to improve the core competences of technical students
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 750
: Trong bối cảnh cạnh tranh như hiện nay, việc nâng cao chất lượng giáo dục theo hướng đáp ứng sự hài lòng của khách hàng với các dịch vụ giáo dục luôn được các nhà trường coi trọng. Nhà trường vẫn lúng túng trong việc đáp ứng sự hài lòng của khách hàng. Do vậy, việc tìm kiếm một khung lí luận làm kim chỉ nam cho hoạt động xác định và đáp ứng sự hài lòng của khách hàng là cấp thiết ở nhà trường. Những năm gần đây, khung quản lí chất lượng tổng thể đã được áp dụng khá rộng rãi trong các trường học. Đây là một tiếp cận thực hành nhưng mang tính chiến lược để điều hành một tổ chức (nhà trường) nhằm tập trung vào nhu cầu của khách hàng. Bài viết giới thiệu về khung lí thuyết quản lí chất lượng tổng thể và hướng vận dụng khung lí thuyết này trong việc nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường học.
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,188
Phương pháp dạy học vi mô là một trong những phương pháp dạy học tích cực, đưa người học tới vị trí trung tâm của quá trình dạy học. Dạy học vi mô cho phép sinh viên được thực hành từng kĩ năng riêng lẻ trong một bài học ngắn (trích đoạn bài học), trong một lớp học mini (vi mô), với sự quan sát ghi chép (ghi hình) và đóng góp ý kiến của các sinh viên khác trong nhóm và giảng viên. Phương pháp này rất thích hợp trong việc đào tạo ban đầu cho sinh viên Sư phạm nắm chắc từng kĩ năng riêng biệt, hình thành các năng lực bộ phận của nghề dạy học. Bài viết trình bày giải pháp “Vận dụng phương pháp dạy học vi mô trong việc rèn luyện kĩ năng dạy học cho sinh viên tại Trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu”
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 688
Trên cơ sở làm rõ sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả quản trị trường đại học công lập Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, tác giả đề xuất 6 giải pháp để nâng cao hiệu quả quản trị trường đại học công lập Việt Nam, bao gồm: 1/ Phân quyền giữa đảng ủy, hội đồng trường và hiệu trưởng trường đại học công lập; 2/ Tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình và kiểm định chất lượng giáo dục trường đại học công lập; 3/ Tạo động lực, thúc đẩy hoạt động của trường đại học công lập trên tất cả các lĩnh vực thông qua hệ thống chính sách thường xuyên được cải tiến; 4/ Hợp tác, chia sẻ trách nhiệm giữa trường đại học công lập với các bên liên quan; 5/ Tạo dựng, quảng bá và khai thác thương hiệu, giá trị cốt lõi của trường đại học công lập; 6/ Đảm bảo các điều kiện cần thiết để thực hiện hiệu quả hoạt động quản trị trường đại học công lập
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 760
Hiện nay, thế giới đang bước vào kỉ nguyên kinh tế tri thức đã, đang và sẽ tiếp tục tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học. Nó đòi hỏi các trường đại học cần phải có sự thay đổi để thích ứng những đòi hỏi của thời cuộc đặt ra, đặc biệt là nâng cao chất lượng dạy và học nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong đó, các môn Lí luận chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc xác lập nền tảng Lí luận chính trị cho sinh viên, góp phần đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, không chỉ giỏi và nhuần nhuyễn các kĩ năng chuyên môn mà còn vững vàng về bản lĩnh chính trị và từng bước hoàn thiện thế giới quan khoa học, nhân sinh quan tích cực. Để làm được điều đó, không thể không kể đến việc nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lí luận chính trị ở trường đại học. Bài viết tập trung làm rõ một số khái niệm và phân tích, đánh giá thực trạng trong công tác dạy, học các môn Lí luận chính trị và đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng giảng dạy các môn Lí luận chính trị ở trường đại học của nước ta hiện nay.
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 759
Hệ thống đánh giá năng lực theo tiêu chuẩn quốc tế phải được quán triệt trong toàn thể các cán bộ, giáo viên, công nhân viên và sinh viên nhà trường. Hệ thống đánh giá năng lực đào tạo, huấn luyện Hàng hải nhất định phải có bộ phận chuyên trách dưới sự lãnh đạo trực tiếp của hiệu trưởng. Bộ phận này làm nhiệm vụ theo dõi việc triển khai hệ thống đánh giá, kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện các quy trình để từ đó đề ra các yêu cầu cải tiến. Định kì tổ chức tự đánh giá năng lực và chất lượng đào tạo, huấn luyện Hàng hải làm cơ sở để lãnh đạo nhà trường có những giải pháp phù hợp trong việc bố trí các nguồn lực sao cho hiệu quả hơn, nhằm từng bước nâng cao chất lượng đào tạo, huấn luyện trong nhà trường. Bài viết đề cập đến các nội dung: Thực trạng hệ thống đánh giá năng lực đào tạo, huấn luyện Hàng hải hiện nay; Nguyên tắc đánh giá năng lực đào tạo, huấn luyện; Phương pháp đánh giá năng lực đào tạo, huấn luyện; Xây dựng hệ thống và một số kết luận về hệ thống đánh giá năng lực đào tạo, huấn luyện Hàng hải Việt Nam.
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,880
Trong quá trình thực hiện đánh giá kết quả học tập các môn học nói chung và môn Giáo dục học nói riêng theo tiếp cận năng lực, một trong những khâu khó thực hiện nhất là xây dựng được các công cụ để đánh giá năng lực người học, mà trong đó rubric là công cụ có hiệu quả hơn cả. Bài báo làm rõ cách thức xây dựng các rubric đánh giá kết quả học tập môn Giáo dục học theo tiếp cận năng lực bao gồm hai khâu là xây dựng tiêu chí đánh giá các năng lực cụ thể và xây dựng các mức độ đạt được của các tiêu chí đó. Mỗi khâu lại được mô tả chi tiết, cụ thể nhằm làm rõ đặc trưng riêng của đánh giá theo tiếp cận năng lực, qua đó giúp cho giảng viên dạy học môn này có thể tham khảo phục vụ cho quá trình giảng dạy môn học của mình.
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,246
Chúng ta đang ở thế kỉ XXI, thế giới đang tiến vào cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư với Internet vạn vật (Internet of Things-IoT), nguồn dữ liệu lớn (Big Data),…Nhiều thành tựu của công nghệ đang được dưa vào giáo dục như Công nghệ thực tế tăng cường (Augmented Reality-AR) và thực tế ảo (Virtual Reality-VR). Để theo kịp đổi mới về công nghệ, bên cạnh việc có được nền tảng kĩ thuật tốt còn cần đổi mới về tư duy cho người học, tăng cường một số kĩ năng của thế kỉ XXI như kĩ năng số, kĩ năng tình cảm xã hội và kĩ năng chuyển đổi. Nhiều nước trên thế giới đã đi đầu trong ứng dụng AR, hay VR trong giáo dục như: Hàn Quốc, Cộng hòa liên bang Đức, Singapore,... và bước đầu cho thấy thế mạnh của ứng dụng công nghệ trong đổi mới giáo dục. Nước ta đang đổi mới giáo dục theo hướng tiếp cận với nền giáo dục của một số nước tiên tiến, vươn tới một nền giáo dục thông minh.Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả với thực tiễn giáo dục nước nhà rất cần học tập kinh nghiệm của các nước, trong đó có Singapore. Bài viết này giới thiệu đôi nét về cách mà Singapore tiếp cận và triển khai ứng dụng công nghệ trong đổi mới giáo dục. Qua đó, có thể học tập được đôi điều cho Việt Nam khi tiếp cận với giáo dục 4.0.
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 731
Nghị quyết Trung ương 8 về Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo đã tạo khuôn khổ pháp lí, chính trị làm cơ sở cho một cuộc cải cách sâu rộng trong toàn ngành Giáo dục, trong đó đội ngũ giáo viên là nhân tố trung tâm của quá trình cải cách. Những nhiệm vụ mới đặt ra đòi hỏi đội ngũ người thầy phải ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn, có năng lực cao hơn, có tri thức và phương pháp phù hợp để giải quyết những vấn đề thực tiễn, những vấn đề tức thời nảy sinh trên lớp hoặc trong nhà trường. Trong bối cảnh đó, việc đổi mới phương thức tổ chức bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ ở phổ thông trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Nhiệm vụ này đòi hỏi cần có những bước đột phá mới về cách làm với những quan niệm mới trong nhận thức, đưa công tác bồi dưỡng trở về quỹ đạo thực tiễn, với định hướng tự bồi dưỡng thường xuyên, tại chỗ, với sự hỗ trợ hiệu quả về chuyên môn từ các trường đại học đào tạo chuyên ngoại ngữ. Trong bài viết này, các tác giả đã trình bày những nét chính của Mô hình thực địa bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ phổ thông với hi vọng mô hình sẽ góp thêm một tiếng nói trong những nỗ lực chung của toàn ngành hướng tới việc nghiên cứu và triển khai thử nghiệm những mô hình mới bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ.