Danh sách bài viết

Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 774
Chất lượng giáo dục và đào tạo tại các học viện, nhà trường quân đội nói chung, Trường Sĩ quan Pháo binh nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố.Trong đó, nội dung, hình thức, phương pháp giảng dạy đóng vai trò quan trọng. Đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tối đa tính tích cực học tập, rèn luyện của học viên là giải pháp tiên quyết, tạo động lực thúc đẩy người học nắm vững hệ thống tri thức, kĩ xảo, kĩ năng nghề nghiệp quân sự, rèn luyện bản lĩnh, tác phong người sĩ quan chỉ huy pháo binh, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung luận giải thực trạng giảng dạy của giảng viên, tính tích cực học tập, rèn luyện của học viên. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp cơ bản đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giảng dạy của giáo viên nhằm khơi dậy và phát huy tối đa tính tích cực học tập, rèn luyện của học viên, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo, góp phần xây dựng nhà trường vững mạnh toàn diện
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 2,004
Phòng, chống bạo lực học đường là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết của hiệu trưởng trường phổ thông. Hiệu trưởng trường phổ thông quản lí hoạt động này bao gồm ba hoạt động cơ bản: quản lí hoạt động tuyên truyền, giáo dục phòng, chống bạo lực học đường; quản lí hoạt động xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện trong nhà trường và quản lí hoạt động xử lí khi có nguy cơ xảy ra hoặc đã xảy ra bạo lực học đường. Quản lí của hiệu trưởng được thực hiện thông qua các chức năng quản lí (xây dựng kế hoạch, tổ chức bộ máy thực hiện, chỉ đạo và kiểm tra). Để thực hiện tốt việc phòng, chống bạo lực học đường, hiệu trưởng cũng cần chú trọng quản lí các điều kiện về nhân sự, cơ sở vật chất và tài chính phục vụ hoạt động phòng, chống bạo lực học đường.
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,802
Trong quá trình thực hiện đánh giá kết quả học tập các môn học nói chung và môn Giáo dục học nói riêng theo tiếp cận năng lực, một trong những khâu khó thực hiện nhất là xây dựng được các công cụ để đánh giá năng lực người học, mà trong đó rubric là công cụ có hiệu quả hơn cả. Bài báo làm rõ cách thức xây dựng các rubric đánh giá kết quả học tập môn Giáo dục học theo tiếp cận năng lực bao gồm hai khâu là xây dựng tiêu chí đánh giá các năng lực cụ thể và xây dựng các mức độ đạt được của các tiêu chí đó. Mỗi khâu lại được mô tả chi tiết, cụ thể nhằm làm rõ đặc trưng riêng của đánh giá theo tiếp cận năng lực, qua đó giúp cho giảng viên dạy học môn này có thể tham khảo phục vụ cho quá trình giảng dạy môn học của mình.
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,197
Chúng ta đang ở thế kỉ XXI, thế giới đang tiến vào cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư với Internet vạn vật (Internet of Things-IoT), nguồn dữ liệu lớn (Big Data),…Nhiều thành tựu của công nghệ đang được dưa vào giáo dục như Công nghệ thực tế tăng cường (Augmented Reality-AR) và thực tế ảo (Virtual Reality-VR). Để theo kịp đổi mới về công nghệ, bên cạnh việc có được nền tảng kĩ thuật tốt còn cần đổi mới về tư duy cho người học, tăng cường một số kĩ năng của thế kỉ XXI như kĩ năng số, kĩ năng tình cảm xã hội và kĩ năng chuyển đổi. Nhiều nước trên thế giới đã đi đầu trong ứng dụng AR, hay VR trong giáo dục như: Hàn Quốc, Cộng hòa liên bang Đức, Singapore,... và bước đầu cho thấy thế mạnh của ứng dụng công nghệ trong đổi mới giáo dục. Nước ta đang đổi mới giáo dục theo hướng tiếp cận với nền giáo dục của một số nước tiên tiến, vươn tới một nền giáo dục thông minh.Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả với thực tiễn giáo dục nước nhà rất cần học tập kinh nghiệm của các nước, trong đó có Singapore. Bài viết này giới thiệu đôi nét về cách mà Singapore tiếp cận và triển khai ứng dụng công nghệ trong đổi mới giáo dục. Qua đó, có thể học tập được đôi điều cho Việt Nam khi tiếp cận với giáo dục 4.0.
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 688
Nghị quyết Trung ương 8 về Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo đã tạo khuôn khổ pháp lí, chính trị làm cơ sở cho một cuộc cải cách sâu rộng trong toàn ngành Giáo dục, trong đó đội ngũ giáo viên là nhân tố trung tâm của quá trình cải cách. Những nhiệm vụ mới đặt ra đòi hỏi đội ngũ người thầy phải ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn, có năng lực cao hơn, có tri thức và phương pháp phù hợp để giải quyết những vấn đề thực tiễn, những vấn đề tức thời nảy sinh trên lớp hoặc trong nhà trường. Trong bối cảnh đó, việc đổi mới phương thức tổ chức bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ ở phổ thông trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Nhiệm vụ này đòi hỏi cần có những bước đột phá mới về cách làm với những quan niệm mới trong nhận thức, đưa công tác bồi dưỡng trở về quỹ đạo thực tiễn, với định hướng tự bồi dưỡng thường xuyên, tại chỗ, với sự hỗ trợ hiệu quả về chuyên môn từ các trường đại học đào tạo chuyên ngoại ngữ. Trong bài viết này, các tác giả đã trình bày những nét chính của Mô hình thực địa bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ phổ thông với hi vọng mô hình sẽ góp thêm một tiếng nói trong những nỗ lực chung của toàn ngành hướng tới việc nghiên cứu và triển khai thử nghiệm những mô hình mới bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ.
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 560
There is no argument amongst educators that a teacher’s feedback represents a significant contribution to a learner’s in-class learning outcomes. However, while the contribution of a teacher’s feedback is significant there are also challenges associated with the effectiveness of a teacher’s feedback. These challenges, the authors suggest, centre mainly on the effectiveness of the discourse between the teacher and the leaner. To possibly assist in addressing some of the challenges associated with the effectives of a teacher’s feedback this paper outlines that there needs to be an emphasis on Future Actionable Knowledge. Future Actionable Knowledge, the authors contend, is driven by Assessment To Learning, which highlights the use of interconnected formative assessment tasks within the teaching and learning space. By highlighting the use of interconnected formative assessment to drive Assessment To Learning, the authors believe, influences a teacher’s feedback to the learner by providing the leaner and the teacher with Future Actionable Knowledge, facilitated through Multi-Dimensional Discourse, via Feedback-Feedforward Learning, whereby, the teaching and learning activities associated with the learning space focus on value-adding to the in-class learning of the learner.
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 437
Under the impact of the socialist-oriented market economy and international integration, more and more autonomy has been assigned to public higher education institutions to encourage their appropriate and effective use of resources to improve training quality. In reviewing the model of human resource management and knowledge management based on the corporate social responsibility (CSR) approach, this paper presents a model built for developing academic staff under the consideration of several factors including external factors, internal factors, the autonomy and social responsibilities of the University for outputs, stakeholders (university administration board, investors, human resources units, university members) and the quality management of higher education institutions.
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 449
Besides the formal education mode, constant education mode plays an important role and function in meeting with needs of human resources to help decrease the gap of level of production and social life in Viet Nam compared with developing countries in the region and in the world, integrate Vietnamese education into regional and global education, which is developing continuously. To make sure of the above missions, aside from diversifying modes of training, constant education mode requires evaluating and understanding the roles, functions together with opportunities and challenges of this mode correctly to support and influence it positively. In the process of human resource training in the Mekong Delta during this time, it is undeniable to mention the role of Can Tho University, which makes a great effort to maintain and develop the effectiveness of constant education mode
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 453
In this article, the author describes the outline of experiential teaching and learning activities such as project-based learning, learning games and so on. Besides, this article also focuses on organizing mini project-based learning activities and learning games in the experiential teaching of System Thinking subject at Ho Chi Minh City University of Technology and Education. Combination of both qualitative (observation, interview, practical product-based research) and quantitave (rubrics) research methods were applied to identify gradually changes of the core competences (collaboration and problem-solving) of technical students through participating in the experiential learning activities. Some minor suggestions are made on organizing the experiential learning activities in cohesion with learning outcomes, teaching and learning activities as well as using assessment to improve the core competences of technical students
Số: /2020 Số CIT: 0 Số lượt xem: 697
: Trong bối cảnh cạnh tranh như hiện nay, việc nâng cao chất lượng giáo dục theo hướng đáp ứng sự hài lòng của khách hàng với các dịch vụ giáo dục luôn được các nhà trường coi trọng. Nhà trường vẫn lúng túng trong việc đáp ứng sự hài lòng của khách hàng. Do vậy, việc tìm kiếm một khung lí luận làm kim chỉ nam cho hoạt động xác định và đáp ứng sự hài lòng của khách hàng là cấp thiết ở nhà trường. Những năm gần đây, khung quản lí chất lượng tổng thể đã được áp dụng khá rộng rãi trong các trường học. Đây là một tiếp cận thực hành nhưng mang tính chiến lược để điều hành một tổ chức (nhà trường) nhằm tập trung vào nhu cầu của khách hàng. Bài viết giới thiệu về khung lí thuyết quản lí chất lượng tổng thể và hướng vận dụng khung lí thuyết này trong việc nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường học.