Số: /2020
Số CIT: 0
Số lượt xem: 759
Sử dụng công nghệ trong dạy học nói chung, dạy học Ngữ văn nói riêng đang là nhu cầu cấp thiết hiện nay, đặc biệt trong giai đoạn chúng ta triển khai thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông mới, hướng đến mục tiêu phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất cho học sinh, trong đó có năng lực sử dụng công nghệ thông tin. Bài viết đề xuất quy trình ứng dụng phần mềm Storymap - một phần mềm phổ biến của hãng ESRI, có nhiều ưu điểm trong việc ứng dụng bản đồ, mở rộng phạm vi thông tin, kết nối hình ảnh, video… trong dạy học đọc hiểu thể loại kí ở trường trung học phổ thông nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ trong dạy học Ngữ văn và chất lượng dạy học Ngữ văn ở nhà trường phổ thông trong bối cảnh giáo dục 4.0 hiện nay
Số: /2020
Số CIT: 0
Số lượt xem: 666
Giáo dục phổ thông đang có những đổi mới căn bản và toàn diện. Sự đổi mới này đã có ảnh hưởng lớn đến cán bộ quản lí giáo dục nói chung, tổ trưởng chuyên môn trường tiểu học nói riêng. Bài báo đề cập đến vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tổ trưởng chuyên môn trường tiểu học trong bối cảnh đổi mới giáo dục phổ thông.Từ đó làm rõ khung năng lực của tổ trưởng chuyên môn trường tiểu học
Số: /2020
Số CIT: 0
Số lượt xem: 903
Với mục tiêu “Giáo viên phải được đào tạo để trở thành những nhà giáo dục hơn là những chuyên gia truyền đạt kiến thức”, hoạt động quản lí chương trình đào tạo giáo viên trung học phổ thông theo tiếp cận đảm bảo chất lượng của mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á cần được cải cách cơ bản và sâu sắc, hướng đến mô hình của các nước đang phát triển nhưng vẫn phải đáp ứng các đặc thù của xã hội và nền giáo dục đại học Việt Nam. Bài viết đánh giá thực trạng quản lí chương trình đào tạo giáo viên trung học phổ thông theo tiếp cận AUN-QA của 5 cơ sở đào tạo. Việc quản lí chương trình đào tạo đã đạt được những kết quả khả quan như chuẩn đầu ra được xây dựng tương thích với tầm nhìn và sứ mạng của nhà trường, việc giám sát, đánh giá việc triển khai mục đích giáo dục, vai trò của người dạy và người học được thực hiện nhất quán, việc đánh giá hệ thống giám sát sự tiến bộ của người học, kết quả và khối lượng học tập của người học được triển khai hiệu quả... Kết quả nghiên cứu cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế, cần đề xuất các biện pháp khắc phục như các nội dung trong quản lí và phát triển chuyên môn của cán bộ giảng dạy và hỗ trợ, các nội dung trong việc quản lí kiểm tra đánh giá học tập chưa được thực hiện tốt, ....
Số: /2020
Số CIT: 0
Số lượt xem: 822
Giáo dục thông minh là sự chuyển đổi từ giáo dục truyền thống sang nền tảng giáo dục mới, thể hiện trên năm thành tố có tính tương tác cao: (1) Tính tự chủ, tự định hướng (Self-directed); (2) Có động lực học tập (Motivated); (3) Sự thích ứng (Adaptive); (4) Giàu hóa tài nguyên (Resource-enriched); (5) Tích hợp công nghệ (Technology). Giáo dục thông minh hướng tới mục đích đổi mới phương pháp giáo dục thể hiện trong một môi trường giáo dục được hỗ trợ bởi công nghệ, tạo ra sự thích ứng và đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục trong bối cảnh cuộc Cách mạng 4.0. Các nghiên cứu về trường học thông minh xác định những đặc điểm chung của trường học thông minh hoặc đi sâu vào các thành tố của trường học thông minh như mục tiêu, nội dung, phương pháp, đánh giá, …Việc nghiên cứu xác định các “mức độ thông minh” làm cơ sở cho việc xây dựng, phát triển trường học thông minh. Bài viết này thảo luận về các đặc điểm chính của giáo dục thông minh và môi trường học tập thông minh, trường học thông minh trên cách nhìn tổng thể mang tính cấu trúc, đặc biệt sẽ chỉ ra các yếu tố liên quan, thống nhất để xây dựng trường học thông minh.
Số: /2020
Số CIT: 0
Số lượt xem: 882
Trong những năm vừa qua, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã xác định “Chiến lược phát triển kinh tế biển là lĩnh vực kinh tế mũi nhọn hàng đầu của cả nước”. Do vậy, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực hàng hải được đào tạo với chất lượng cao. Bài viết chỉ ra những thách thức, cơ hội mà Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại đối với giáo dục - đào tạo ở nước ta; những thực trạng chung và nhu cầu về nhân lực hàng hải chất lượng cao ở Việt Nam; trên cơ sở đó, bài viết đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nhân lực hàng hải Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Như vậy, việc nâng cao chất lượng nhân lực hàng hải trở nên cấp thiết và quan trọng, đó là công việc có tính chất quyết định đến sự tồn tại, phát triển của ngành Hàng hải, phát triển kinh tế biển Việt Nam từ nay đến năm 2025 và lâu hơn nữa. Đồng thời, thông qua việc “nâng cao chất lượng nhân lực hàng hải” sẽ góp phần tích cực vào việc “hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị quan trọng trước mắt cũng như lâu dài về bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo… trước những thế lực thù địch liên tục gây hấn và lăm le xâm lấn chủ quyền biển đảo trên Biển Đông của Việt Nam”.
Số: /2020
Số CIT: 0
Số lượt xem: 595
Bài viết phân tích thực trạng tạo động lực cho giảng viên cơ hữu tại 13 trường đại học ngoài công lập tại thành phố Hà Nội. Thông qua các số liệu thu thập được từ 500 bảng hỏi, tác giả đã so sánh và đánh giá các yếu tố tác động đến động lực làm việc của giảng viên thông qua đặc điểm công việc, thu thập, môi trường làm việc và sự thăng tiến để làm rõ hơn sự khác biệt của các nhóm giảng viên phân theo tuổi, giới tính, thời gian công tác, học vị.Từ kết quả đó, tác giả đề xuất một số giải pháp hữu ích nhằm hướng đến nâng cao hiệu quả tạo động lực làm việc cho giảng viên cơ hữu tại các trường đại học ngoài công lập trên địa bàn Hà Nội.
Số: /2020
Số CIT: 0
Số lượt xem: 913
Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tác động mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực trong đó có giáo dục, nhiều mô hình trường học trực tuyến ra đời với những chương trình và phương pháp giảng dạy mới. Quá trình toàn cầu hóa trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang mở ra những cơ hội mới cho giáo dục Việt Nam. Năm 2017, theo Trung tâm Internet Việt Nam đánh giá thì tỉ lệ ngân sách và chi tiêu của người dân dành cho giáo dục là rất lớn, với hơn 67% người dân sử dụng Internet đây là một tiềm năng to lớn để phát triển E-learning và theo tác giả Akins (2016) nhận định thì Việt Nam được xem là quốc gia có tốc độ tăng trưởng thị trường giáo dục trực tuyến rất lớn vượt qua cả Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc. Song, chúng ta vẫn còn đang đối mặt với nhiều thách thức từ một hệ thống giáo dục thiếu tính mở và hạn chế về nguồn lực, dẫn đến chất lượng giáo dục và đào tạo trực tuyến chưa đạt yêu cầu của thực tiễn. Do vậy, nếu nhà trường không tìm cách thích ứng với xu thế mới thì rất dễ bị bỏ lại phía sau. Hơn bao giờ hết, đổi mới về nhận thức; đầu tư các nguồn lực phục vụ cho việc triển khai E-learning và đặc biệt việc bồi dưỡng kĩ năng, phương pháp giảng dạy trực tuyến cho đội ngũ giáo viên/ giảng viên cũng như hướng dẫn năng lực tự học của học sinh/sinh viên là hết sức cần thiết trong giai đoạn sắp tới.
Số: /2020
Số CIT: 0
Số lượt xem: 668
Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở các trường của ngành Hàng hải Việt Nam trở nên cấp thiết và quan trọng, đó là công việc có tính chất quyết định đến sự tồn tại, phát triển của ngành từ nay đến năm 2025 và lâu hơn nữa. Trong bài viết, các tác giả đánh giá thực trạng của đội ngũ giảng viên trong các trường hàng hải ở Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên trong các trường này, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và hội nhập quốc tế.
Số: /2020
Số CIT: 0
Số lượt xem: 1,414
Một trong những yếu tố hội nhập giáo dục quốc tế thành công là học sinh sau khi hoàn thành khóa học có khả năng vận dụng những kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề của thực tiễn cuộc sống. Do đó, ngay từ cấp Trung học phổ thông, việc dạy cho học sinh biết vận dụng những kiến thức hóa học vào thực tiễn là rất cần thiêt. Trong bài viết này, tác giả giới thiệu phương pháp phát triển năng lực vận dụng kiến thức hóa học vào thực tiễn cho học sinh ở một số trường trung học phổ thông thuộc địa phận tỉnh Bắc Giang thông qua sử dụng hệ thống bài tập Hóa học.
Số: /2020
Số CIT: 0
Số lượt xem: 2,288
Dạy học đọc hiểu văn bản thông tin cho học sinh phổ thông ở nhiều nước trên thế giới đã được tiến hành từ lâu, nhưng ở Việt Nam lại là một điểm mới trong Chương trình môn Ngữ văn 2018. Giáo viên Ngữ văn của Việt Nam lâu nay hầu như chỉ dạy học sinh đọc hiểu văn bản văn học, chưa nắm được cách dạy học đọc hiểu văn bản thông tin. Việc dạy học đọc hiểu văn bản lâu nay chỉ có trong môn Ngữ văn, không có trong các môn học khác. Hơn nữa, từ trước đến nay, giáo viên chỉ dạy các văn bản được quy định sẵn trong chương trình, sách giáo khoa mà chưa phải tự tìm hoặc chưa dám thay đổi ngữ liệu dạy học. Tâm lí ngại ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy học Ngữ văn nói chung cũng khiến cho việc dạy học đọc hiểu văn bản thông tin theo yêu cầu của Chương trình Ngữ văn 2018 gặp khó khăn. Cần phải có những giải pháp trước mắt và lâu dài để khắc phục những trở ngại này.

