Danh sách bài viết

Số: /2021 Số CIT: 0 Số lượt xem: 803
Vấn đề hướng nghiệp trên thế giới đã được đề cập đến từ rất lâu, tuy nhiên làm thế nào có thể thực hiện công tác hướng nghiệp hiệu quả là một bài toán mà hầu hết các quốc gia đặt ra. Muốn thực hiện được hiệu quả công tác này, chúng ta cần phải đào tạo được một đội ngũ các nhân viên, các chuyên gia hướng nghiệp chuyên nghiệp, để đáp ứng điều đó các tổ chức hướng nghiệp ở các quốc gia đã nghiên cứu và xác định được các năng lực và khung năng lực hướng nghiệp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến năng lực hướng nghiệp của một số quốc gia trên thế giới như Mĩ, Anh, Scotland, Ai len... Mỗi một quốc gia khác nhau đều xác định các năng lực với vị trí và vai trò khác nhau như Mĩ, Ai len xác định các năng lực hướng nghiệp để đào tạo nhân viên tư vấn nghề nghiệp; Mĩ, Anh, Nam Phi thì xác định các năng lực hướng nghiệp để đào tạo các chuyên gia phát triển nghề nghiệp. Những kết quả này có thể làm khung tham chiếu để xây dựng năng lực và khung năng lực hướng nghiệp cho các nhà hướng nghiệp ở Việt Nam.
Số: /2021 Số CIT: 0 Số lượt xem: 722
Hiệu quả đầu tư cho giáo dục đại học được phản ánh qua các chỉ số như: IRR (internal rate of returns - tỉ suất hoàn vốn nội bộ); NPV (net present values - giá trị hiện tại ròng); BCR (benefit - cost rate - tỉ suất lợi ích chi phí). Sau khi so sánh chi phí, lợi ích và các chỉ số phản ánh hiệu quả đầu tư cho giáo dục đại học của Việt Nam với một số quốc gia khác thuộc khối OECD, có thể thấy rằng đầu tư cho giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay thuộc dạng “chi phí thấp - lợi ích thấp - hiệu quả thấp”. Việc nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục đại học phải dựa trên cơ sở sự nỗ lực, chung tay góp sức của tất cả các bên hữu quan (Nhà nước - Nhà trường - Người học - Doanh nghiệp) nhằm hướng tới chuyển đổi mô hình đầu tư cho giáo dục đại học công lập ở Việt Nam giai đoạn tới theo hướng “chi phí hợp lí - lợi ích cao - hiệu quả cao”, đáp ứng sự kì vọng của xã hội cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước với mục tiêu đến năm 2030 cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Số: /2021 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,668
Bài viết đề xuất quan niệm về năng lực toán học với các thành tố của nó và bước đầu xác định yêu cầu cần đạt theo từng cấp học trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Đồng thời, phân tích quan niệm về năng lực tính toán trên bình diện một năng lực chuyên môn (như đã xác định trong chương trình tổng thể). Từ đó, thông qua ví dụ cụ thể, bước đầu đề cập đến cơ hội và cách thức để môn Toán có thể góp phần hình thành, phát triển năng lực tính toán (cũng như các năng lực chung và năng lực chuyên môn khác) trong chương trình giáo dục phổ thông mới.
Số: /2021 Số CIT: 0 Số lượt xem: 845
: Chuẩn bị cho chương trình giáo dục phổ thông mới với mục tiêu phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh, Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện thí điểm xây dựng trường học mới Việt Nam. Trường học mới đã nhanh chóng được các tỉnh/thành phố trong toàn quốc cho thí điểm ở cả hai cấp Tiểu học và Trung học cơ sở. Sau thời gian thí điểm, trường học mới đã nhận được nhiều ý kiến đánh giá trái chiều về hiệu quả, tính khả thi cũng như những hạn chế, tác động tiêu cực đến giáo dục. Bài viết đưa ra đánh giá khách quan về những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân; đề xuất một số giải pháp cho việc triển khai trường học mới Việt Nam và từ đó đưa ra bài học kinh nghiệm cho việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới.
Số: /2021 Số CIT: 0 Số lượt xem: 767
Chính sách đối với học sinh phổ thông dân tộc thiểu số vừa tạo động lực cho các em học tập, chủ động hòa nhập cộng đồng và đời sống kinh tế - xã hội, vừa là công cụ kiểm soát, phân bổ nguồn lực trong xã hội, tạo môi trường phù hợp nhằm bình đẳng tiếp cận giáo dục. Nhiều chính sách đã được ban hành thể hiện hiệu quả, phù hợp và có sự điều chỉnh kịp thời với thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đối với học sinh phổ thông dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Bài viết dựa trên kết quả nghiên cứu về quy trình chính sách, đánh giá một số kết quả đạt được và thách thức trong thực hiện quy trình chính sách đối với học sinh phổ thông dân tộc thiểu số. Trên cơ sở đó, một số giải pháp được đưa ra nhằm hoàn thiện quy trình chính sách đối với học sinh phổ thông dân tộc thiểu số ở nước ta trong bối cảnh hiện nay.
Số: /2021 Số CIT: 0 Số lượt xem: 3,295
Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục bắt buộc, có vai trò quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Hoạt động này giúp học sinh có nhiều cơ hội để vận dụng những kiến thức đã học được vào thực tiễn. Từ quá trình tham gia hoạt động trải nghiệm, học sinh hình thành năng lực thực tiễn cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân. Bài viết đề xuất quy trình xây dựng và tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học ở trường phổ thông như một gợi ý đối với giáo viên trong quá trình làm quen với việc xây dựng và tổ chức các hoạt động trải nghiệm.
Số: /2021 Số CIT: 0 Số lượt xem: 953
Việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh để từ đó bồi dưỡng cho các em phương pháp tự học, hình thành khả năng học tập suốt đời là một nhu cầu tất yếu trong các nhà trường. Tác giả đưa ra một số biện pháp quản lí đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông dựa theo lí thuyết quản lí sự thay đổi. Tuy nhiên, mỗi trường có một đặc điểm khác nhau, điều kiện vật chất và phi vật chất cũng khác nhau nên cần phải xác định được những vấn đề cụ thể của nhà trường đang đối mặt, phải tự đánh giá được thực trạng và xác định đúng trường mình đang đứng ở vị trí nào trong quá trình phát triển, nhận diện chính xác vấn đề cần thay đổi để đưa ra một lộ trình đổi mới xác đáng.
Số: /2021 Số CIT: 0 Số lượt xem: 666
Bài viết trình bày mô hình vận dụng lí thuyết điều khiển trong dạy học và áp dụng trong dạy học kĩ thuật. Kết quả dạy học thực nghiệm tại lớp DN16CD11 với 63 sinh viên ngành Điện công nghiệp, khoa Điện - Điện lạnh, Trường Cao đẳng Nghề Đồng Nai với bài dạy là Timer và ứng dụng đã cho thấy tính khả thi, hiệu quả của biện pháp. Qua đó, khẳng định việc vận dụng lí thuyết điều khiển trong dạy học là giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng dạy học, phát triển năng lực của người học đáp ứng nhu cầu xã hội trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.
Số: /2021 Số CIT: 0 Số lượt xem: 738
Đề cập đến vấn đề đánh giá sự phát triển của người học, tác giả bài viết phân tích rõ: 1/ Quan điểm đánh giá sự phát triển của người học; 2/ Thực trạng đánh giá học sinh; 3/ Thời cơ, thách thức và một số giải pháp đổi mới đánh giá năng lực học sinh. Theo tác giả bài viết, trong đánh giá người học, luôn tồn tại ba cách tiếp cận và cần vận dụng đồng thời cả ba cách tiếp cận đánh giá đó là: Đánh giá kết quả học tập tập trung xác định việc đạt chuẩn chương trình, nên thường thực hiện vào cuối giai đoạn giáo dục; Đánh giá vì việc học tập trung phân tích và phản hồi việc học tập, giúp học sinh xác định vị trí của mình trên tiến trình học tập, đưa ra mục tiêu cần hướng tới và cách thức tốt nhất để đạt mục tiêu; Đánh giá là học tập đề cập đến quá trình học sinh tự kiểm tra, đánh giá, suy xét việc học của mình và đặt trách nhiệm cải thiện việc học.
Số: /2021 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,051
Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học (STEM) đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia và sự phát triển bền vững của nhân loại. Trong một xã hội công bằng, hoà bình và thịnh vượng thì phụ nữ phải cùng với nam giới đóng góp bình đẳng và họ phải được đảm bảo cơ hội bình đẳng tham gia học tập ở tất cả các lĩnh vực, kể cả STEM. Bài viết tập trung phân tích thực trạng định hướng giá trị nghề nghiệp cho học sinh nữ, tìm ra nguyên nhân của những rào cản sự tham gia của phụ nữ và trẻ em gái trong lĩnh vực STEM, từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể thu hút ngày càng nhiều học sinh nữ vào học lĩnh vực STEM, giúp các em biết nuôi dưỡng đam mê khi nhận thức đầy đủ những giá trị nghề nghiệp của lĩnh vực STEM và giá trị bản thân, từ đó phát huy tiềm năng, có kế hoạch phát triển nghề nghiệp để đi đến thành công lớn hơn về kinh tế và thực hiện bình đẳng nhiều hơn về mọi mặt