Danh sách bài viết

Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,000
Năng lực số của học sinh không chỉ là quá trình tích lũy các kiến thức, kĩ năng cơ bản đến năng lực sáng tạo về công nghệ mà còn là quá trình tạo ra các sản phẩm công nghệ ứng dụng vào giải quyết các vấn đề trong cuộc sống, học tập và công việc. Hơn nữa, khung năng lực số đề cập đến tác động xã hội và văn hóa khi sử dụng công nghệ số. Kĩ năng nghiên cứu khoa học giúp học sinh có tư duy khoa học, phản biện những vấn đề còn tồn tại trong thực tế, giải đáp các thắc mắc liên quan đến học thuật. Giáo dục hướng nghiệp là một hoạt động chính khóa trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 giúp học sinh nâng cao hiểu biết về nghề nghiệp, định hướng đúng đắn và đưa ra quyết định chọn ngành, nghề phù hợp. Bài viết giới thiệu khung năng lực số của học sinh trung học phổ thông, đồng thời chỉ ra mối liên hệ giữa khung năng lực số và năng lực nghiên cứu khoa học cùng với định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học phổ thông.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 2,100
Khoa học quản lí giáo dục là một cấu phần của khoa học giáo dục, có vai trò quan trọng trong các hoạt động hoạch định chính sách, xây dựng đường lối, chủ trương giáo dục của Đảng và Nhà nước, đồng thời cung cấp hệ thống lí luận khoa học làm căn cứ nền tảng cho những hoạt động thực tiễn quản lí giáo dục. Nghiên cứu khoa học quản lí giáo dục bao gồm các khía cạnh như: chính sách, chiến lược phát triển giáo dục, quy hoạch, dự báo giáo dục, quản lí, quản trị cơ sở giáo dục, quản lí phát triển nguồn nhân lực. Bài viết phân tích thực trạng nghiên cứu khoa học quản lí giáo dục trong 10 năm qua, đánh giá những thành tựu, đóng góp của khoa học quản lí cho sự phát triển khoa học giáo dục cũng như sự phát triển giáo dục, đồng thời chỉ ra những hạn chế, từ đó đề xuất định hướng nghiên cứu trong thời gian tới.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,017
Ngày 04 tháng 11 năm 2013, tại Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI của Đảng đã ban hành Nghị quyết 29-NQ/TW về Đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết đã chỉ rõ: “Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo”. Sau 10 năm triển khai Nghị quyết 29/NQ-TW của Đảng, giáo dục Việt Nam đã có những đổi thay to lớn trên nhiều phương diện. Trong đó, lĩnh vực kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục đã có những bước đột phá mang tính cách mạng, góp phần không nhỏ vào thành công chung của công cuộc đổi mới giáo dục giai đoạn hiện nay. Bài viết này là một phần trong kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học “Khảo sát và nghiên cứu về đổi mới kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông”. Nội dung bài viết tập trung vào các vấn đề chính sau: 1) Xem xét những thay đổi về chính sách kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông từ sau Nghị quyết 29/NQ-TW; 2) Đánh giá ưu điểm và tồn tại của những chính sách về kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông 10 năm qua.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,028
Sáng tạo là một thuộc tính tâm lí đóng vai trò quan trọng không chỉ đối với phát triển cá nhân mà còn góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Việc khơi gợi, nuôi dưỡng và phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ em ngay từ lứa tuổi mầm non có tác động tích cực đến sự phát triển toàn diện của trẻ trong nhiều khía cạnh. Bài viết sử dụng test đánh giá khả năng sáng tạo TSD - Z của Klaus K. Urban để tìm hiểu khả năng sáng tạo của 120 trẻ 5 - 6 tuổi ở 3 trường mầm non thuộc khu vực thành thị, miền núi và miền biển của huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Kết quả nghiên cứu cho thấy, điểm trung bình mà trẻ đạt được là 26.36 trên điểm trung bình tối đa là 72 điểm; có 67.5% trẻ ở mức trung bình và trên trung bình trong thang đo 7 mức. Nghiên cứu cũng cho thấy, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa trẻ trai và trẻ gái về kết quả. Trong 14 tiêu chí của test thì tiêu chí về “hài cảm” có tỉ lệ trẻ đạt được là cao nhất. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiên cứu tiếp theo về những tác động sư phạm nhằm phát huy tính sáng tạo cho trẻ đáp ứng với mục tiêu chung của giáo dục mầm non.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 611
Giáo dục gia đình là hình thức giáo dục xuất hiện từ rất lâu đời nhưng đã dần biến mất khi chế độ giáo dục phổ thông được hình thành và thực hiện phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc. Ngày nay, một số nước trên thế giới đã công nhận hình thức giáo dục gia đình. Ở Việt Nam, giáo dục gia đình là hình thức giáo dục tự phát, chưa có cơ sở pháp lí và khoa học. Bài viết tập trung nghiên cứu ở Việt Nam và Nga, dựa trên dữ liệu nghiên cứu xã hội học, chứng minh rằng trong điều kiện xã hội hiện đại vốn văn hóa gia đình thông qua cơ chế kế thừa, tái sản xuất là nguồn lực phát triển giáo dục gia đình.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 933
Với sự bùng nổ của công nghệ thông tin và sự xuất hiện của các phần mềm tiên tiến, ứng dụng học tập, dạy học kết hợp ở bậc học phổ thông ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới và Việt Nam không nằm ngoài xu thế trên. Để áp dụng hiệu quả mô hình dạy học kết hợp, việc chuẩn bị kế hoạch bài dạy hợp lí và kĩ càng hơn đóng vai trò rất quan trọng. Kế hoạch bài dạy trong dạy học kết hợp giúp đảm bảo sự hiệu quả và tổ chức hợp lí của quá trình học, đồng thời tận dụng tốt những lợi ích của cả hai hình thức dạy học. Bài viết trình bày một số kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và triển khai kế hoạch bài dạy trong dạy học kết hợp, từ đó đề xuất quy trình xây dựng và khung kế hoạch bài dạy trong dạy học kết hợp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của các giờ dạy học kết hợp ở Việt Nam.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,100
Bài viết trình bày tổng quan kết quả nghiên cứu về phát triển năng lực quan sát và đánh giá sự phát triển của trẻ trên thế giới và Việt Nam, từ đó đề xuất định hướng nghiên cứu và ứng dụng trong đào tạo giáo viên mầm non ở Việt Nam. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu để phân tích, tổng hợp, khái quát các tài liệu dưới dạng sách, báo khoa học từ các cơ sở dữ liệu thông dụng. Hai hướng nghiên cứu về phát triển năng lực quan sát và đánh giá sự phát triển của trẻ được xác định gồm: 1) Năng lực quan sát và đánh giá sự phát triển của trẻ; 2) Phát triển năng lực quan sát và đánh giá sự phát triển của trẻ cho sinh viên ngành Giáo dục mầm non. Nghiên cứu cũng xác định khoảng trống và đưa ra khuyến nghị về các định hướng nghiên cứu tiềm năng về chủ đề này trong các cơ sở đào tạo giáo viên mầm non.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,713
Tư duy phản biện có lịch sử phát triển từ rất lâu đời. Đây luôn đươc nhìn nhận là một trong những những kĩ năng tư duy quan trọng nhất mà các nhà tuyển dụng đòi hỏi các ứng viên. Do vậy, tư duy phản biện là kĩ năng được yêu cầu sinh viên tốt nghiệp đáp ứng trong hầu hết các chương trình đào tạo bậc đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Kĩ năng này được đề cập trong các chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo cũng như trong các chuẩn đầu ra của các học phần liên quan. Người sở hữu tư duy phản biện tốt là cá nhân có năng lực phân tích và đánh giá thông tin; khả năng lập luận, đồng thời đưa ra quyết định đúng đắn trên nền tảng suy luận logic. Trong nền kinh tế tri thức ngày nay, tư duy phản biện được đánh giá là chìa khoá thành công. Vì vậy, việc đưa tư duy phản biện vào nội dung chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy là điều cần thiết đối với các cơ sở đào tạo bậc đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 840
Giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai hoạt động có mối quan hệ gắn bó, hai nhiệm vụ trọng tâm của giáo viên. Thông tư số 15/2017/TTBGDĐT ngày 09 tháng 6 năm 2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc sửa đổi bổ sung một số chế độ làm việc đối với giáo viên phổ thông đã đặc biệt chú trọng hoạt động nghiên cứu khoa học của giáo viên. Theo đó, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học là khâu đột phá để nâng cao chất lượng giáo dục và là tiền đề quan trọng để nền giáo dục thực sự trở thành động lực góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đây chính là ẩn số của bài toán phát triển, đòi hỏi chúng ta cần sớm tìm lời giải để khắc phục những bất cập, hạn chế đang tồn tại nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả tập trung đánh giá thực trạng và đề xuất biện pháp phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho đội ngũ giáo viên tiểu học ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long - một trong những vấn đề có tính quyết định cho tiến trình thực hiện đổi mới Chương trình Giáo dục phổ thông 2018.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 709
Nghiên cứu chỉ ra rằng, cùng với sự phát triển của dân số, số trẻ khuyết tật cũng có xu hướng tăng. Nhu cầu trẻ khuyết tật cần được tiếp cận giáo dục có chất lượng ở khắp các địa phương trong cả nước, cùng với xu thế phát triển giáo dục chuyên biệt trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, tỉ lệ đến trường của trẻ khuyết tật còn thấp, mạng lưới cơ sở giáo dục chuyên biệt chưa phát triển rộng khắp, tỉ lệ giáo viên được đào tạo chuyên ngành thấp và cơ sở vật chất phục vu giảng dạy còn hạn chế. Vì vậy, cần thiết phải phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục chuyên biệt ở Việt Nam, đảm bảo cơ hội tiếp cận giáo dục cho trẻ khuyết tật trên mọi miền của Tổ quốc trên cơ sở tận dụng nguồn lực sẵn có trong hệ thống giáo dục đào tạo, huy động được các nguồn lực xã hội cùng tham gia thực hiện giáo dục người khuyết tật.