Danh sách bài viết

Số: /2025 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,130
Trí tuệ nhân tạo đang mở ra nhiều cơ hội và thách thức mới trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là đối với việc đào tạo giáo viên Giáo dục công dân tại các trường đại học Sư phạm ở Việt Nam. Trí tuệ nhân tạo không chỉ hỗ trợ giáo viên trong việc cá nhân hóa học tập, tự động hóa các nhiệm vụ hành chính và phát triển nội dung sáng tạo mà còn cung cấp các công cụ đánh giá và phân tích hiệu quả học tập. Tuy nhiên, việc áp dụng trí tuệ nhân tạo cũng đặt ra nhiều thách thức như yêu cầu về kĩ năng công nghệ, sự thay đổi trong phương pháp giảng dạy và vấn đề bảo mật dữ liệu. Bài viết phân tích các cơ hội và thách thức mà trí tuệ nhân tạo mang lại, từ đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên Giáo dục công dân trong bối cảnh hiện nay.
Số: /2025 Số CIT: 0 Số lượt xem: 949

Một trong những xu thế phát triển của giáo dục đại học hiện nay chính là toàn cầu hóa, quốc tế hóa và liên kết trong giáo dục đại học. Để thích ứng và tiếp cận với thị trường lao động quốc tế, đáp ứng các yêu cầu hội nhập, các cơ sở giáo dục cần phải chủ động trong việc thực hiện công tác đảm bảo và kiểm định chất lượng đặc biệt là kiểm định chất lượng quốc tế. Việc thực hiện nhiệm vụ này không chỉ giúp các cơ sở giáo dục đại học gia tăng trách nhiệm giải trình với các bên liên quan mà còn có thể quảng bá được thương hiệu, nâng cao được năng lực cạnh tranh của nhà trường, từ đó thu hút được nguồn sinh viên có chất lượng. Hiện nay, tại Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công nhận hoạt động nhiều tổ chức kiểm định bao gồm cả trong và ngoài nước điển hình như: Hcéres, AUN-QA, FIBAA, ASIIN, ACBSP... Mỗi tổ chức đều có những yêu cầu chuyên biệt dựa trên các tiêu chuẩn để công nhận chất lượng. ASIIN là một trong các tổ chức được Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam cấp phép từ năm 2016. Đây là tổ chức đến từ Châu Âu nên cũng có nhiều sự khác biệt trong tiến trình thực hiện công nhận chất lượng.

Số: /2025 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,127
Việc đánh giá hiệu quả công việc của giảng viên là một nhiệm vụ cốt lõi nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học cũng như công tác quản lí nhân sự trong môi trường đại học. Nghiên cứu này dựa trên việc phân tích tổng quan các mô hình KPIs hiện có trong lĩnh vực đánh giá giảng viên, kết hợp với các nguyên lí quản lí giáo dục, quy định pháp lí hiện hành và chiến lược phát triển của Trường Đại học Thủ Đô Hà Nội theo từng giai đoạn. Từ đó, nghiên cứu đề xuất Bộ chỉ số đánh giá mức độ thực hiện công việc (KPIs) dành riêng cho giảng viên Chương trình đào tạo ngành Giáo dục tiểu học thuộc Khoa Sư phạm, Trường Đại học Thủ Đô Hà Nội. Bộ tiêu chí được kì vọng sẽ cải thiện chất lượng giảng dạy và nghiên cứu, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác quản lí giảng viên trong trường.
Số: /2025 Số CIT: 0 Số lượt xem: 747
Hình học trực quan là nội dung chính của mạch kiến thức hình học và đo lường trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018. Nội dung hình học trực quan ngầm ẩn nhiều kiến thức có thể vận dụng vào tổ chức các hoạt động dạy học trong giáo dục STEM. Sản phẩm “Thiết kế căn phòng mơ ước” thường có dạng hình học trực quan như hình hộp chữ nhật hay hình lập phương, tích hợp kiến thức nhiều lĩnh vực của STEM. Mục tiêu của bài báo là bàn về cách thiết kế sản phẩm dạy học theo hướng tích hợp Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học. Phương pháp được đề cập trong bài báo là phương pháp nghiên cứu lí luận và phương pháp thực hành các nội dung lí luận trong thực tiễn. Kết quả mới của bài báo là đưa ra được cách dạy học thiết kế một sản phẩm STEM cụ thể là “căn phòng mơ ước” có dạng hình chữ nhật hay hình lập phương. Bài báo góp phần nâng cao hiệu quả dạy học, tạo ra tư liệu vận dụng hình học trực quan, giúp những nhà giáo dục và lãnh đạo có cơ sở khoa học về dạy học STEM.
Số: /2025 Số CIT: 0 Số lượt xem: 591
Công nghệ thông tin được áp dụng ngày càng nhiều trong giáo dục do hiệu quả mang lại cho người học nguồn học liệu phong phú và cho phép giáo viên áp dụng đa dạng các phương pháp dạy học. Trong lĩnh vực giáo dục ngoại ngữ, công nghệ thông tin rất hữu ích qua việc tạo điều kiện cho người học tiếp xúc với ngôn ngữ thực tế là điều rất cần thiết trong môi trường tiếng Anh chỉ là ngoại ngữ. Đã có rất nhiều các nghiên cứu về thái độ, nhận thức đối với vai trò của công nghệ trong việc học tiếng Anh, nghiên cứu này tập trung tìm hiểu vấn đề tương tự theo cách nhìn của người học. Đối tượng nghiên cứu gồm 52 học viên tại một cơ sở tiếng Anh ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Dữ liệu thu thập được thông qua bảng hỏi và phỏng vấn. Kết quả được trình bày và thảo luận theo các khía cạnh sau: 1) Các công cụ công nghệ được người học ưa chuộng, 2) Thái độ của người học, 3) Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của người học về ứng dụng công nghệ thông tin vào môn nghe tiếng Anh. Kết quả gợi ra những đề xuất nhằm tăng cường thái độ tích cực và mức độ đón nhận của người học với công nghệ thông tin trong hoạt động dạy và học tiếng Anh.
Số: /2025 Số CIT: 0 Số lượt xem: 806
Bối cảnh chuyển đổi số trong giáo dục đem tới nhiều cơ hội và cũng đặt ra những yêu cầu rất cơ bản về nguồn nhân lực, đối với chương trình đào tạo và chuẩn đầu ra của các trường đại học, cụ thể đề cập ở đây là đào tạo giáo viên. Bài báo nghiên cứu tổng quan cơ sở lí luận về năng lực dạy học, năng lực dạy học kết hợp, lấy cơ sở từ các nghiên cứu về khung năng lực số, năng lực dạy học trong chương trình đào tạo của các trường đại học Sư phạm, khoa Sư phạm, trường đại học có đào tạo ngành Sư phạm. Bài báo này, với phương pháp chính là tổng quan lí luận, trả lời hai câu hỏi nghiên cứu: 1) Năng lực dạy học kết hợp dựa trên những căn cứ khoa học nào? 2) Bối cảnh chuyển đổi số trong giáo dục đặt ra yêu cầu như thế nào với năng lực này của sinh viên sư phạm. Nghiên cứu tổng quan này đặt nền tảng cho các hướng nghiên cứu cụ thể tiếp theo trong giáo dục đại học nói chung, đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dạy học (đào tạo giáo viên) nói riêng, xuất phát từ phần còn bỏ ngỏ về năng lực dạy học số, năng lực dạy học kết hợp của sinh viên Sư phạm.
Số: /2025 Số CIT: 0 Số lượt xem: 786

Nguồn lực có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển giáo dục mầm non. Nếu nguồn lực không đảm bảo, giáo dục mầm non không thể phát triển một cách vững chắc. Nguồn lực phát triển giáo dục mầm non không tự nhiên mà có mà cần được huy động. Để huy động nguồn lực một cách có hiệu quả, phải có chiến lược và cách tiếp cận sáng tạo; đồng thời phải tăng cường quản lí việc thực hiện hoạt động này. Bài báo tổng quan các nghiên cứu trong nước và ngoài nước về các vấn đề: Huy động nguồn lực phát triển giáo dục, huy động nguồn lực phát triển giáo dục mầm non, quản lí huy động nguồn lực phát triển giáo dục mầm non. Tổng quan các nghiên cứu về huy động nguồn lực và quản lí huy động nguồn lực phát triển giáo dục mầm non là rất cần thiết nhằm xác định những vấn đề cần tiếp thu và những nội dung cần tập trung nghiên cứu giải quyết, đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục mầm non ở nước ta đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.

Số: /2025 Số CIT: 0 Số lượt xem: 850

Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 môn Giáo dục công dân có quan điểm, mục tiêu và yêu cầu xây dựng chương trình theo hướng đảm bảo tính khoa học, đổi mới, mở và hiện đại, nhằm hình thành 5 phẩm chất và 3 năng lực đặc thù cho học sinh. Môn Giáo dục Kinh tế và Pháp luật là khâu đột phá trong đổi mới chương trình khi những kiến thức kinh tế và giáo dục kinh doanh được đưa vào chương trình phổ thông nhằm định hướng nghề nghiệp cho học sinh từ sớm, từ xa đáp ứng yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực của đất nước trong bối cảnh mới. Vì vậy, năng lực khởi nghiệp cũng có thể xem như là một năng lực đặc thù của môn học. Trong phạm vi bài viết, tác giả làm rõ về các chủ đề môn học gắn với năng lực khởi nghiệp và lưu ý việc đổi mới tích cực quá trình dạy học môn Giáo dục Kinh tế và Pháp luật để phát triển năng lực khỏi nghiệp cho học sinh ở các trường phổ thông hiện nay.

Số: /2025 Số CIT: 0 Số lượt xem: 624
Đến nay, phát triển Chương trình Giáo dục phổ thông được nhiều nước quan tâm và triển khai, nhằm phát triển bền vững nền giáo dục quốc gia. Để có thông tin cho phát triển Chương trình Giáo dục phổ thông, một việc không thể thiếu đó là hồi cứu tiến trình phát triển và những đổi mới chính yếu trong dạy học ở bình diện quốc gia, thời kì trước đó, để có được kinh nghiệm, định hướng cho giai đoạn tiếp theo. Theo đó, bài viết này tập trung vào những điểm chính yếu về tiến trình phát triển và những đổi mới trong dạy học Toán ở Trung học cơ sở của Việt Nam từ năm 1980 đến nay. Tuy nhiên, do khuôn khổ bài viết có hạn nên tác giả chỉ tập trung phân tích trên 5 bình diện chính yếu, là: Vị trí của môn Toán; Chương trình môn Toán; Sách giáo khoa môn Toán; Phương pháp dạy học; Kiểm tra, đánh giá.