Danh sách bài viết

Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,068
Quản trị nguồn nhân lực nói chung và quản trị nguồn nhân lực ở trường đại học nói riêng đã có nhiều nghiên cứu ở trong và ngoài nước quan tâm với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trên cơ sở tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề quản trị nguồn nhân lực, phân tích các tiếp cận khác nhau, bài viết lựa chọn một cách tiếp cận cho quản trị nguồn nhân lực ở trường đại học công lập. Từ việc khái quát nguồn nhân lực, quản trị nguồn nhân lực nói chung và quản trị nguồn nhân lực trong môi trường tự chủ ở các trường đại học nói riêng, bài viết gợi mở một số vấn đề cần tiếp tục giải quyết khi nghiên cứu về quản trị nguồn nhân lực trong môi trường tự chủ đại học.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,077
Học tập trải nghiệm giúp người học từ kinh nghiệm bản thân kết hợp những kiến thức thu nhận được ở trường học hình thành nên những giá trị sống của mỗi cá nhân. Học phần Giáo dục đạo đức ở tiểu học trong chương trình đào tạo giáo viên với nội dung giảng dạy về giá trị sống, kĩ năng sống, giáo dục đạo đức giúp sinh viên ngành Giáo dục tiểu học có kiến thức trong giảng dạy các nội dung này ở tiểu học. Vận dụng phương pháp học tập trải nghiệm trong giảng dạy, học phần được đánh giá thông qua sự tiến bộ về năng lực học tập, các kết quả làm việc cá nhân, làm việc nhóm, kĩ năng thiết kế và tổ chức dạy học các nội dung thực hành của sinh viên. Bài viết dựa trên cơ sở những nghiên cứu lí thuyết học tập trải nghiệm để đề xuất quy trình học tập trải nghiệm nhằm giúp giảng viên và sinh viên ngành Giáo dục tiểu học Trường Đại học Thủ Đô Hà Nội đạt hiệu quả tối ưu.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,215
Hiện nay, nội dung giáo dục địa phương cấp Trung học phổ thông đã và đang được triển khai tổ chức thực hiện tại các nhà trường. Năm học 2022 - 2023 tổ chức dạy học tài liệu giáo dục địa phương lớp 10. Để nắm bắt được những khó khăn, thuận lợi trong quá trình triển khai, nghiên cứu đã khảo sát 1542 cán bộ quản lí và giáo viên dạy học tài liệu giáo dục địa phương lớp 10 ở 10 tỉnh/thành phố về các nội dung: tập huấn sử dụng tài liệu, phân công giáo viên dạy học nội dung giáo dục địa phương, xây dựng kế hoạch giáo dục và phương thức tổ chức dạy học, hình thức và hiệu quả sử dụng tài liệu, các điều kiện đảm bảo để triển khai tài liệu. Kết quả khảo sát cho thấy, tuy đã có những kết quả thuận lợi ban đầu nhưng vẫn còn những khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện. Nghiên cứu đã đưa ra một số giải pháp để hỗ trợ các nhà trường thực hiện tốt nội dung giáo dục địa phương ở những năm học tiếp theo.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,290
Bài viết phân tích nhận định của 316 đối tượng khảo sát đến từ các trường đại học, học viện và viện nghiên cứu trên 24 tỉnh/thành phố thông qua phiếu trưng cầu ý kiến được thiết kế dưới dạng google form về việc đưa ra các nhận định về mức độ ảnh hưởng của 16 yếu tố đến sự phát triển của khoa học giáo dục Việt Nam giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến năm 2045. Kết quả phân tích cho thấy, mẫu khảo sát đa dạng, mang tính đại diện cho các quan điểm đến từ các cơ quan, vị trí công tác khác nhau trong lĩnh vực giáo dục trên khắp cả nước. Thông qua khảo sát cho thấy, các yếu tố ảnh hưởng cao nhất đến sự phát triển của khoa học giáo dục Việt Nam là: 1/ Định hướng phát triển giáo dục và đào tạo của Việt Nam; 2/ Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; 3/ Cách mạng công nghiệp 4.0; 4/ Xu thế phát triển giáo dục đào tạo trên thế giới; 5/ Nguồn nhân lực phục vụ nghiên cứu khoa học giáo dục. Các yếu tố ảnh hưởng thấp nhất đến sự phát triển của khoa học giáo dục Việt Nam là: 1/ Quan hệ, hợp tác nghiên cứu với các cá nhân, tổ chức quốc tế; 2/ Trào lưu các nghề trong xã hội; 3/ Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học giáo dục.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 749
Ngày nay, việc học tập trực tuyến ngày càng trở nên phổ biến. Tuy nhiên, nền tảng trực tuyến cũng chỉ là một hình thức học tập. Để đạt được hiệu quả học tập tốt ở hình thức này, các vấn đề về hứng thú trong học tập lại càng phải được quan tâm. Trong bài viết này, tác giả tìm hiểu hứng thú của sinh viên năm thứ nhất trong quá trình học tập môn Vật lí đào tạo bằng hình thức học tập kết hợp 70/30 (70 offline và 30 online) tại Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông. Nghiên cứu cung cấp một cái nhìn cụ thể hơn về hứng thú của sinh viên trong học tập kết hợp trực tuyến và truyền thống, từ đó đưa ra giải pháp nhằm giúp sinh viên học tập tốt học phần này để nâng cao chất lượng dạy và học.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,133
Năng lực số của học sinh không chỉ là quá trình tích lũy các kiến thức, kĩ năng cơ bản đến năng lực sáng tạo về công nghệ mà còn là quá trình tạo ra các sản phẩm công nghệ ứng dụng vào giải quyết các vấn đề trong cuộc sống, học tập và công việc. Hơn nữa, khung năng lực số đề cập đến tác động xã hội và văn hóa khi sử dụng công nghệ số. Kĩ năng nghiên cứu khoa học giúp học sinh có tư duy khoa học, phản biện những vấn đề còn tồn tại trong thực tế, giải đáp các thắc mắc liên quan đến học thuật. Giáo dục hướng nghiệp là một hoạt động chính khóa trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 giúp học sinh nâng cao hiểu biết về nghề nghiệp, định hướng đúng đắn và đưa ra quyết định chọn ngành, nghề phù hợp. Bài viết giới thiệu khung năng lực số của học sinh trung học phổ thông, đồng thời chỉ ra mối liên hệ giữa khung năng lực số và năng lực nghiên cứu khoa học cùng với định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học phổ thông.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 2,264
Khoa học quản lí giáo dục là một cấu phần của khoa học giáo dục, có vai trò quan trọng trong các hoạt động hoạch định chính sách, xây dựng đường lối, chủ trương giáo dục của Đảng và Nhà nước, đồng thời cung cấp hệ thống lí luận khoa học làm căn cứ nền tảng cho những hoạt động thực tiễn quản lí giáo dục. Nghiên cứu khoa học quản lí giáo dục bao gồm các khía cạnh như: chính sách, chiến lược phát triển giáo dục, quy hoạch, dự báo giáo dục, quản lí, quản trị cơ sở giáo dục, quản lí phát triển nguồn nhân lực. Bài viết phân tích thực trạng nghiên cứu khoa học quản lí giáo dục trong 10 năm qua, đánh giá những thành tựu, đóng góp của khoa học quản lí cho sự phát triển khoa học giáo dục cũng như sự phát triển giáo dục, đồng thời chỉ ra những hạn chế, từ đó đề xuất định hướng nghiên cứu trong thời gian tới.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,101
Ngày 04 tháng 11 năm 2013, tại Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI của Đảng đã ban hành Nghị quyết 29-NQ/TW về Đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết đã chỉ rõ: “Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo”. Sau 10 năm triển khai Nghị quyết 29/NQ-TW của Đảng, giáo dục Việt Nam đã có những đổi thay to lớn trên nhiều phương diện. Trong đó, lĩnh vực kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục đã có những bước đột phá mang tính cách mạng, góp phần không nhỏ vào thành công chung của công cuộc đổi mới giáo dục giai đoạn hiện nay. Bài viết này là một phần trong kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học “Khảo sát và nghiên cứu về đổi mới kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông”. Nội dung bài viết tập trung vào các vấn đề chính sau: 1) Xem xét những thay đổi về chính sách kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông từ sau Nghị quyết 29/NQ-TW; 2) Đánh giá ưu điểm và tồn tại của những chính sách về kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông 10 năm qua.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 1,120
Sáng tạo là một thuộc tính tâm lí đóng vai trò quan trọng không chỉ đối với phát triển cá nhân mà còn góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Việc khơi gợi, nuôi dưỡng và phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ em ngay từ lứa tuổi mầm non có tác động tích cực đến sự phát triển toàn diện của trẻ trong nhiều khía cạnh. Bài viết sử dụng test đánh giá khả năng sáng tạo TSD - Z của Klaus K. Urban để tìm hiểu khả năng sáng tạo của 120 trẻ 5 - 6 tuổi ở 3 trường mầm non thuộc khu vực thành thị, miền núi và miền biển của huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Kết quả nghiên cứu cho thấy, điểm trung bình mà trẻ đạt được là 26.36 trên điểm trung bình tối đa là 72 điểm; có 67.5% trẻ ở mức trung bình và trên trung bình trong thang đo 7 mức. Nghiên cứu cũng cho thấy, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa trẻ trai và trẻ gái về kết quả. Trong 14 tiêu chí của test thì tiêu chí về “hài cảm” có tỉ lệ trẻ đạt được là cao nhất. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiên cứu tiếp theo về những tác động sư phạm nhằm phát huy tính sáng tạo cho trẻ đáp ứng với mục tiêu chung của giáo dục mầm non.
Số: /2024 Số CIT: 0 Số lượt xem: 661
Giáo dục gia đình là hình thức giáo dục xuất hiện từ rất lâu đời nhưng đã dần biến mất khi chế độ giáo dục phổ thông được hình thành và thực hiện phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc. Ngày nay, một số nước trên thế giới đã công nhận hình thức giáo dục gia đình. Ở Việt Nam, giáo dục gia đình là hình thức giáo dục tự phát, chưa có cơ sở pháp lí và khoa học. Bài viết tập trung nghiên cứu ở Việt Nam và Nga, dựa trên dữ liệu nghiên cứu xã hội học, chứng minh rằng trong điều kiện xã hội hiện đại vốn văn hóa gia đình thông qua cơ chế kế thừa, tái sản xuất là nguồn lực phát triển giáo dục gia đình.